30.04 ghi ân anh hùng vị quốc vong thân
thương tiếc không nguôi
tôn thất tuệ
Khoảng
1967, tôi có đi theo một người bạn cốt ý ăn thịt bò nướng tại nhà một
giáo sư Mỹ trên đường Duy Tân, Saigon. Cùng đến có Patrick Honey, chuyên
viên về VN trong phái bộ Anh tại hội nghị Geneve 1954 và là cố vấn của
ngoại trưởng Anthony Eden. Chừng mươi thực khách vây quanh ông trò
chuyện một hồi không lâu lắm. Honey nói ông ta không ngạc nhiên khi
nghe tin chiến tranh bùng nổ tuy dưới dạng du kích chiến, đánh dấu bởi
trận Ấp Bắc Bà Bèo (29.09.1959). Theo ông hơi hướng chiến tranh đã ngửi
thấy khi hiệp định Geneve xem như đi đến kết cuộc chia đôi VN tuy chưa
ký kết. Ông đã đánh hơi trong khi tiếp xúc với nhân viên các cấp của
phái bộ CS.
Vẫn
theo nhà ngữ học nầy, Phạm Văn Đồng tưởng chừng cường quốc giao hết cả
nước Viêt Nam cho HCM vì nước Pháp còn tệ hơn một thương binh mất cả tứ
chi. HCM đã căm hận đàn anh quốc tế không tiếp tục viện trợ quân sự.
Trung Cọng muốn nhân cơ hội nầy chứng tỏ vai anh, ngang với Nga nên đã
cố ép HCM chấp nhận cái khôn ngoan thường tình là có còn hơn không. CS
chuẩn bị ngay từ đầu bằng cách hô hào tập kết ra bắc thành phần mới được
tuyên truyền nhưng để lại thành phần cốt cán.
Thật
vậy, về đến Hà Nội, HCM gọi là tả khuynh các nhóm hay cá nhân nào chủ
trương lấy hòa bình xây dựng kinh tế nâng cao mức sống dân chúng, cạnh
tranh với miền Nam. Kinh nghiệm cho thấy rằng đi theo kiểu phát triển
của Triều Tiên chỉ đưa đến thất bại vì phía nam vĩ tuyến 38, Mỹ đổ tiền
rất nhiều mà tài nguyên thiên nhiên cũng hơn. Miền Nam VN lại được thiên
nhiên ưu đãi giàu có hơn nếu đem so bắc nam Triều Tiên.
Cải
cách ruộng đất qua đấu tố, ngoài mục đích làm cho giống như đàn anh CS,
nhằm đưa tất cả cơ cấu sản xuất tập trung cho nhà nước để chuẩn bị
chiến tranh. Đoàn ngũ hóa nhân dân cũng đi vào mục đích ấy. Nền văn nghệ
cũng quyết liệt hơn. Không còn nét dân tộc và lãng mạn như thời kháng
chiến. Những tác phẩm có tính cách trực khởi từ tình tự dân tộc như của
Hữu Loan, của Việt Lang... đều bị cấm triệt và các tác giả bị tù đày. Về
lý thuyết và thực tế cái gọi là dân tộc không còn sức kêu gọi trong
giai đoạn mới. Hơn nữa tính dân tộc là xương sống của những thứ cần đả
phá để thay thế bằng lòng yêu đảng và lãnh tụ. Văn nghệ là văn nghệ sản
xuất, là tin tưởng vào lãnh tụ.
Mọi hình thái sinh hoạt, mọi chủ trương chỉ nhắm vào đánh chiếm miền nam dù với hình thức trường kỳ.
Bằng
chứng rõ ràng nhất của âm mưu được tìm thấy trong lời thuyết minh của
Nguyễn Mạnh Tường trước hội nghị các luật gia về hòa binh 1956 tại
Bruxelle (ghi lại trong một hồi ký). Ông đã kêu gọi các đồng nghiệp chấp
nhận vũ trang và bạo động là hòa bình. Đừng ngây ngô mà nói hòa bình và
võ trang khởi nghĩa là hai thực thể tách lìa và đối kháng; hai thứ đó
không như ngày và đêm.
Ông
đã than khóc cho một nước VN bị chia cắt bằng con dao là sông Bến Hải.
Nói với luật gia, ông dùng ví dụ trong nghề, là các phiên tòa ly dị, con
sông nầy là nước mắt của đàn con. NMT đòi thế giới công nhận sự nổi
loạn của luật sư Nguyễn Hữu Thọ trong Nam. "Chúng ta không nên hiểu
chiến tranh là cái gì nguy hại, không có lằn ranh giữa chiến tranh và
hòa bình". Ông lên án sự hời hợt trong sự suy nghĩ của người bình dân,
và ông chủ trương nhìn chiến tranh và hòa bình trong lối suy nghĩ biện
chứng, vượt qua lối giải thích nặng phần ngữ âm và cú pháp.
Chỉ
cách phía trên chừng mươi trang, NMT đã phân biệt chính trị và luật
pháp. Một bên chính trị là mơ hồ như ma như quái; một bên là luật pháp
rõ ràng có lằn mức giới định. Nhưng đến đây ông lại kêu gọi các luật gia
đồng nghiệp dùng biện chứng cùng tính cách năng động để hiểu chiến
tranh chính là hòa bình, vượt lên trên ngôn từ.
NMT
quên nói rằng hiệp định Geneve 1954 được ký kết giữa hai phái bộ quân
sự CS và Pháp. Nó tạo nên một hình thái phần nào giống tình trạng ở vĩ
tuyến 38; quân Nhật bị giải giới bởi Nga phía bắc, Mỹ phía nam; thực tế
tạo nên hai nước Triều Tiên. CS đồng ý rút quân về cố thủ phần chia lãnh
thổ, phía bắc vĩ tuyến 17. NMT
mang sứ mệnh do CSVN giao phó, cùng với Nguyễn Huy Mân chủ tịch tòa án
quân sự để chuẩn bị dư luận quốc tế về âm mưu xâm chiếm miền Nam bằng vũ
lực.
Ngoài
thực tế chính trị với tiền lệ rút quân ở Triều Tiên, Miền Nam vẫn có sự
liên tục chính thống từ khi Bảo Đại tuyên bố độc lập sau thế chiến hai.
Miền Nam là một quốc gia; chính phủ vẫn trông vọng một nước Việt duy
nhất qua hai phản ứng 1. không chấp nhận dự Hội Nghị Á Phi với sự hiện
diện của BV, 2. không chấp nhận đề nghị cả hai miền vào Liên Hiệp Quốc
(đúng sai không bàn ở đây).
Kêu
gọi luật gia thế giới ủng hộ một cuộc nổi loạn bạo động trong một quốc
gia liên tục - ít nhất với lẽ thường - không có tí gì luật pháp. Đáng lý
Hội Luật Gia Dân Chủ nầy phải để ý đến tình trạng luật pháp tại BV. Hà
Nội đã đàn áp đẫm máu các cuộc nổ dậy, ví như vụ Quỳnh Lưu.
Lời
lẽ văn hoa và chuyên nghiệp trước hội nghị che dấu sư hiện diện của CS
trong việc hình thành hiệp định Genève. Ông chỉ nói một cách trống rỗng
về tình trạng chia cắt. Nhưng ai cũng biết ông đến với một mục đích rõ
ràng là bênh vực khởi nghĩa võ trang tại miền Nam. Ông đã cố tình (hay
vì không biết) bỏ lững mối liên hệ giữa Nguyễn Hữu Thọ và chính quyền
BV. Nhưng thiển nghĩ ông dư sức hiểu ông được phái đi không phải là thừa
giấy vẽ voi.
Sau
đó trong suốt cuộc hành trình, qua sinh hoạt với từng phái đoàn riêng,
ông đã phê phán thậm tệ nền pháp luật BV trên lý thuyết và thực hành.
Ông rất khắc khe với cải cách ruộng đất, không tiếc lời xấu xa cho chế
độ CS. Nhưng học giả nầy quên hay cố quên rằng chính thể mà ông cho là
tồi bại là phi nhân lại là guồng máy chỉ huy công cuộc mà ông ca ngợi.
Đó là khởi nghĩa võ trang ở miền Nam. Nói khác ông mong chế độ ông chê
trách phủ trùm đến Mũi Cà Mâu. Nếu mấy chữ kế cận trên đây không nằm
trong ý tưởng của ông thì vị tiến sĩ đôi của chúng ta rất ngây ngô, hành
sử như một luật sư chuyên nghiệp; làm việc cho một đơn đặt hàng nguy
hiểm, như trường hợp biện hộ cho một kẻ sát nhân bị bắt quả tang và thú
nhận cùng các bằng chứng rõ rệt.
Đây
chỉ dùng một đoạn ngắn minh chứng sự chuẩn bị và ý hướng xâm chiếm miền
Nam. Ông đã cổ súy sự tự phát võ trang. Điều nầy không mới lạ mà là một
đề tài chính trong tuyên truyền của Hà Nội. Tính
cách gọi là "nhân dân" ấy dễ ngụy trang du kích chiến. Mà du kích chiến
tự nó không thể giải quyết rốt ráo, phải nhường chỗ cho chiến tranh qui
ước và diện địa. BV đã đi ngược lối tuyên truyền ấy khi cho những đơn
vị lớn vượt Bến Hải xâm vào Quảng Trị 1972; và sau đó chúng ta chứng
kiến những trận đánh lớn và xua quân ào ạt chiếm miền Nam ngày 30.04.75.
Chiến
trận kết liễu, phô bày trước mắt người miền Nam một miền bắc nghèo nàn
và bưng bít; phô bày trước mắt người Bắc một miền Nam không phải là một
nhà tù vĩ đại, dân chúng không ăn cơm với cái gáo dừa. Trước chính sách
bần cùng hóa, người miền Nam còn ở trong nước, phải nghĩ đến cuộc sống
khó khăn, ở ngoài nước chỉ nghĩ đến thân nhân. Họ không có thì giờ để
nghĩ đến những người trong cùng chiến tuyến đã chết, vừa chết.
Sự
thương tiếc ấy cũng bị lu mờ vì lòng căm hận đối với ván cờ thí xe lấy
chốt, căm hận đối với những kẻ có binh quyền để lại cái băng nhựa kêu
gọi chiến đấu đến giọt máu cuối cùng mà người thật đã cùng vợ con xô
chiếc trực thăng xuống biển sau khi đã đáp an toàn trên tàu chiến ngoài
khơi. Dân chúng không tìm ra trung tướng Thiệu, cái trung tướng mà người
bằng da thịt tên Nguyễn Văn Thiệu bảo đảm hiện hữu, còn cái tổng thống
Thiệu sẽ mất đi. Thì ra tổng thống cũng không, mà trung tướng cũng
không.
Tôi
không quen ca ngợi kể cả ca ngợi Phật Chúa. Tôi lại không quen ca ngợi
những chiến sĩ mọi cấp đã hy sinh, vì chính tôi là một quân nhân biệt
phái, đi từ quân trường về nhiệm sở cũ và làm việc tại Saigon cho đến
ngày hạ màn. Tôi đã không thấy sự cơ cực của người lính chiến, tôi đã
không trực diện với cái chết kề hông. Tôi cảm thấy không đủ tư cách đứng
lên đọc một lời cảm niệm, khệ nệ đặt một vòng hoa trên mồ chiến sĩ. Tôi
không có quyền hô hào một ai xông vào lửa đạn. Nhưng tôi thấy được phép
ta thán sự vong ân bội nghĩa, "bạc như dân".
Vừa
đi tù về, một hôm chờ xe buýt, phải căng tai mà nghe để tách xa, khỏi
di lụy; nhưng nhờ vậy tôi nghe hai bà nói với nhau vừa học ở phương, chỉ
nhi74ng người như Lê Hồng Phong mới yêu nuốc, chứ như Tôn Thất Tiệp
(Thiệp) tử sát khi Hàm Nghi bị bắt chỉ là bọn phong kiến mưu cầu lợi
lôc. Chuyện nầy làm tôi liên tưởng sự phê phán của vài bà tướng bà tá
đối với bà Lê Văn Hưng: ông Hưng tự sát là phí đời, không cần thiết,
không khôn ngoan tí nào.
Phải
rồi, những bà ấy hằng ngày tại Saigon điều khiển mười sáu ông tướng bốn
màu nên xem các ông tướng như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng không hơn gì
con bài tứ sắc. Hàng ngày các bà điều khiển cả tiểu đội, nào lái xe cho
bà đi chợ, lái xe cho con đi học, các bà có thể ăn lương của họ vì họ
mưu cầu chữ thọ, điều khiển họ như tôi tớ. Vì vậy các bà không thể quan
niệm cái hào hùng của anh lính trận, không thấy huynh đệ chi binh. Trong
vài ngày cuối ở Cần Thơ, tướng Nguyễn Khoa Nam đi thăm bệnh viện dã
chiến; một thương bệnh binh cố sức chồm ôm ông, vừa khóc vừa nói: trung
tướng đừng bỏ em.
Các
bà trung tướng... đeo sao của chồng tốt nhất nên ngậm miệng ăn tiền, vì
rất có thể các đức ông chồng đang hung hăng trên diễn đàn cộng đồng,
đứng đầu các tổ chức cựu quân nhân, bộ trưởng trong các chính phủ lưu
vong. Ở đời có những người mình gặp mà không nói thì mất người, có người
mình nói thì mất lời. Chị Hưng ơi, nói với họ làm chi, chị ơi.
Các
bà thì sao cũng được còn các ông thì coi không được. Vài ông đã trở cờ.
Nhưng điều buồn cười nhất là tất cả các vị ấy, dân sự, quân sự, văn
nghệ sĩ đi đúng một khuôn thức: phải chửi lại cộng đồng, và chửi lại
quân đội, hai tập thể đã cưu mang họ trong suốt cuộc đời họ. Không chửi
như thế có được không? Đó là điều kiện của Hà Nội chăng?
Tôi
không nghĩ như vậy, mà đây do tâm thức của kẻ qui hàng rất chi là Đông
Chu Liệt Quốc. Ngày xưa Ngô Khởi tự ý giết vợ để cho vua tin. CS đa
nghi, các vị ấy phải theo bài học của nhà quân sự Xuân Thu nầy. Rõ ràng,
cứu cánh biện minh cho phương tiện; mà đây lại là phương tiện không cần
thiết.
Nếu
những người nầy thật sự là CS từ đầu (đảng viên hay nằm vùng) nay trở
về chủ cũ; đó là những điều đáng buồn, họ không đáng trách. Nhưng đáng
miệt thị là những kẻ từ trong trứng nước, lớn lên, giàu có trong ân huệ
của miền Nam, hưởng không khí tự do (dù tương đối) quay trở lại làm hại
cho miền Nam. Họ thuộc nhiều thành phần trong xã hội, và cũng là nhóm
nhiều mồm mép nhất. Họ đáng bị nguyền rủa, trong lúc chúng ta không
khinh thị những cán binh CS thực tâm tin tưởng như họ được tuyên truyền.
Lớp nầy giống như kẻ bán khai chặt cây táo mà hái trái trong lúc người
văn minh dùng thang mà hái rồi tưới nước cho cây.
Trường
hợp tệ hại nhất, theo tôi, một ông tướng đã nói rằng nếu quân miền Nam
giải phóng miền Bắc thì sự sát hại còn ghê gớm bội phần những điều đã
xẩy ra sau 1975 bởi CSVN. Con cá sẩy bao giờ cũng lớn; vì con cá ấy chưa
có trong tay, tự mình cảm thấy nó to hay tự ý khếch đại. Có câu hỏi
trong Cổ Học Tinh Hoa, vẽ ma dễ hay vẽ người dễ; vẽ ma thì dễ quá, cái
mũi không cần cân xứng, vẽ năm mười cái sừng cũng chả sao, nanh dài đến
rốn càng tốt.
Biện
lý cuộc đã xin tòa phán quyết tử hình cho một kẻ ăn cắp quả trứng gà.
Quả trứng gà sẽ thành con gà, con gà sẽ thành bầy gà, sinh ra nhiều
tiền, đem tiền đi đầu tư sinh lợi có thể xây cả trăm thành phố. Tòa giảm
còn chung thân. Không một ai biết quả trứng có trống hay không.
Hy
vọng lối suy diễn ấy chỉ mới có trong sự thôi thúc đặc biệt trong hoàn
cảnh hiện nay, để xin điểm, để làm quà của hàng tướng như Ngô Khởi dâng
thủ cấp của vợ. Nhưng nếu lối suy luận ấy nằm lòng từ khi các vị ấy còn
nắm quyền ở VN, thì khỏi giải thích vì sao con cháu Lạc Hồng chạy re
không đem theo được cái mền rách.
Bên trên,
tôi có nêu lời Nguyễn Mạnh Tường chỉ trích cái nhìn bình dân, chưa đạt
đến mức biện chứng. Nhưng tôi là người bình dân, tôi có cái nhìn rất
bình dân.
"Thưa
ông, đây là chồng tôi, mới được về hôm nay, xin ông vui lòng cho chồng
tôi ở lại vài ngày". Tôi đi theo nhà tôi như đứa tớ dưới làng lên tỉnh
giúp việc, qua nhà ông công an khu vực. Ông bất động như một thiền sư
chìm sâu trong tam muội. Tôi nghĩ thầm nếu ông không gật đầu, thế nào
tôi cũng phải ra chợ Nguyễn Tri Phương ngủ, chứ ở trong nhà thì trăm
điều khốn khổ xẩy ra. Nhà tôi nhanh trí nói: Xin ông cho ở chừng ba ngày
để sắp xếp đưa mẹ con tôi hồi hương, giao nhà cho chính quyền. Ông ta
bậc dậy như ai lấy kim chích đít: "Được, lo sắp xếp mà đi đi nhe".
Căn
nhà xập xệ nầy cũng giống như con trâu của một nông dân ngoài Bắc. Con
trâu phải dâng hiến cho hợp tác xã, mong họ lấy cho mà đừng đấu tố chủ
nhân, đừng xếp vào hàng địa chủ. Cũng giống như nhân viên xã vào nhà đếm
gà thấy thiếu một con, không tin là chồn bắt mà đưa gia chủ ra kiểm
thảo giết lén con gà sản xuất, trái với tinh thần đạo đức cách mạng.
Nhờ
ơn trời đất, nhờ ơn ông bà tổ phụ, tôi có tròm trèm dăm ba chữ tuy
không đi đến đâu về duy vật biện chứng, lý thuyết Marx. Tôi không dùng
những thứ ấy để nhìn những việc xẩy ra chung quanh. Tôi chỉ là ông nông
dân có con trâu làm việc trên đồng cạn dưới đồng sâu nay phải từ bỏ nó
mà chưa chắc đã an thân.
Cầu
mong các thân hữu chia xẻ cái nhìn bình dân của tôi. Tôi không muốn căn
nhà bị chiếm đoạt (bị ép mà dâng hiến), tôi không muốn vợ tôi bị xỉ mặt
mắng là thứ vợ ngụy, tôi không muốn con mất các quyền học hành ...và
tôi biết trên cuộc đời nầy, có những con người - dù không thành công -
hy sinh tính mạng trong mục đích làm cho những việc ấy không xẩy ra. Tôi
tri ân những người ấy.
Một
ai đứng trên bờ nhìn ra đại dương mà thấy trong lòng biển nước có xác
của vợ mình, của con mình cùng với cái máy đuôi tôm khi chiếc ghe không
chịu nỗi sóng dập; người ấy cũng biết rằng trên mãnh đất đau khổ của quê
nhà, có những kẻ - tuy chưa thành công - đã hy sinh cuộc đời trong mục
đích làm cho việc ấy không xẩy ra. Hãy biết ơn những người vô danh ấy.
Một
ai thấy miếng đất hương hỏa của mình dành xây nơi thờ cúng tổ tiên nay
nằm dưới khu nhà tắm cầu tiêu của một dinh thự mới, khi tự an ủi với lý
thuyết vô thường, vô sở trụ ... vẫn biết có những kẻ đã hy sinh trong
mục đích ngăn chân điều nầy xây ra; họ thất trận, lắm người quên đi.
Tôi
đã mời các thân hữu dạo quanh một vùng rất rộng lớn với ý niệm chiến
lược cùng vài nét sơ phát của bối cảnh 1954 rồi đi đến cái nhìn rất nhỏ
hẹp bình dân, không kinh điển, không học vị. Cũng giống như hình cái
phểu lớn trên bé dưới, đầu voi đuôi chuột. Ước mong cái nhỏ nhoi ấy là
nhịp thở e ấp, thầm kín, chân thật và có thật. Mỗi cái nhìn riêng tuy
nhỏ bé mà sâu sắc cho từng cá nhân. Cọng chung những thể nghiệm ý thức
ấy, chúng ta sẽ có một luồng hơi ấm mới, khơi nóng bầu không khí có phần
lạnh nhạt vì thời gian và những yếu tố xâm thực từ bên ngoài. Những
khẩu hiệu to lớn ồn ào làm điếc tai không ai nghe; những lời sâu sắc từ
tốn thì cô đơn, ít ai nghe.
Giữa
hai sự thể ấy là những con người sống thực như mỗi chúng ta trực diện
những mất mát, những khổ đau cho chính mình, cho gia đình, cho những
người chung quanh. Chúng ta không bị xung động bởi bất cứ ngọn gió nào.
Chúng ta có những câu hỏi rất người rất đơn giản và giải đáp ngay.
30.4
chấm dứt một sự cố gắng vô song của rất nhiều chiến sĩ trong mục đích
tối hậu chận đứng ngày thảm não ấy. Rất tiếc, thiên cơ đã không giúp họ
ngăn chận cảnh nước mất nhà tan và giúp chúng ta khỏi gánh chịu những
tai ách trong từng hoàn cảnh cá nhân riêng rẻ.
Những
hy sinh âm thầm ấy biết kể làm sao cho hết. Nhưng có kể, cũng xin đừng
quên những di lụy trực tiếp của sự kiện những người nằm xuống. Đó là
những "sư đoàn" cô nhi quả phụ, những thiếu phụ lo cho chồng thương tật,
những bà mẹ cưu mang những đứa con trở thành bất túc, những đứa con
không cha như nhà không nóc.
Bức
tượng Thương Tiếc đã bị đánh ngã ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Đầu
ngàn năm mới, Taliban đã phá hủy hai tượng Phật vĩ đại từ thời A Lịch
Sơn Đại Đế (Alexandre le Grand). Hành vi ấy chỉ thỏa mãn sự kiêu căng
của lãnh tụ Hồi giáo nầy và thiệt hại kỹ nghệ du lịch tại chỗ; nó không
suy siển tinh thần tôn giáo của thế giới và của người theo Phật.
Cũng
thế, Taliban VN đã phá hủy tượng Thương Tiếc bên xa lộ Biên Hòa; nhưng
họ không thể trục hạ sự thương tiếc trong mỗi chúng ta. Bức tượng tâm
thức ấy, ít nhất, mỗi năm được đem ra sơn phết một lần vào ngày mất
nước. Bức tượng ấy không có quá khứ, không có hiện tại, không có tương
lai; bức tượng ấy không riêng gì của người mặc áo trận mà của mọi người.
Trong tượng ấy, có người đã chết, có người đang sống và còn sốngmải
Xuân Đất Khách
Thanh Nam
Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ
Mới hay năm tháng đã thay mùa
Ra đi từ thuở làm ly khách
Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ.
Trôi giạt từ đông sang cõi bắc
Hành trình trơ một gánh ưu tư
Quê người nghĩ xót thân lưu lạcĐất lạ đâu ngờ buổi viễn du.
Thức ngủ một mình trong tủi nhục
Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ
Giống như người lính vừa thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió mưa.
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bờ
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa.
Ơi hỡi quê hương, bè bạn cũ
Những ai còn mất giữa sa mù
Mất nhau từ buổi tàn xuân đó
Không một tin nhà, một cánh thư.
Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi
Rối bời tâm sự tuyết đan tơ
Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài Một Tháng Tư !
Chấp nhận hai đời trong một kiếpĐành cho giông bão phũ phàng đưaĐầu thai lần nữa trên trần thế
Kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ.
Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
Học làm con trẻ nói ngu ngơ
Vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi
Thân phận không bằng đứa mãng phu.
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua
Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do !
Bằng hữu qua đây dăm bẩy kẻ
Đứa nuôi cừu hận, đứa phong baĐứa nằm yên phận vui êm ấmĐứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa.
Mây nước có phen còn hội ngộ
Thâm tình viễn xứ lại như xa
Xuân này đón tuổi gần năm chụcĐối bóng mình ta say với ta.