CÓ PHẢI BÀI CỦA CÔ JACKIE BÔNG KHÔNG ???
- Chữ XÃ HỘI DÂN SỰ là chữ của VIỆT CỘNG SÁNG CHẾ và đã được VIỆT TÂN đem ra Hải Ngoại tích cực phổ biến !!!!????
*Phát Triển* *Xã Hội Dân Sự tại Việt Nam*
*Jackie Bông - Tháng 5, 2010*
*Vai Trò Xây Dựng Xã Hội Từ Nhân Dân*
Ông Bà chúng ta có câu “Phép vua thua lệ làng.” Lời nói đó cho thấy rỏ sự thành hình và bành trướng của xã hội dân sự (XHDS) có từ muôn thuở tại Việt Nam cũng như ở các nước trên thế giới. Khi người dân thấy có một nhu cầu cần thiết gì thì chính họ tự tìm phương cách đễ giãi quyết vấn đề và đưa ra cứu cánh đem đến kết quả thực tiễn.
Những sáng kiến và công tác của người dân đem lại nhuận lợi cho cá nhân họ, gia đình họ, và cho tập thễ trong xã hội mà họ đang chung sống đễ tất cã được chung hưỡng. Họ hội hợp lại, bàn luận, góp sức lực đễ hợp tác, chia sẽ ý kiến, và thiết kế chương trình theo khuôn khổ pháp định công khai, minh bạch, rồi thực hiện những công tác cần thiết cho đến khi nào họ đạt đến kết quả mong muốn theo mục tiêu và sứ mạng đã vạch ra.
Họ tổ chức một nhóm người cùng có một chí hướng đễ tìm phương tiện thực hiện những chương trình tự họ trù tính với tinh thần tự nguyện, bất vụ lợi của một số người hòan toàn độc lập, tách biệt ra không dính líu gì với các công chức của một chánh quyền nào.
Nếu họ thành lập một nhóm có khã năng tổ chức quy cữu thì có thễ gọi họ là một hội phi chánh phủ (non-governmental organization - NGO), một hội tư nhân, một hội thiện nguyện hay hội tương tế. Họ có thễ bành trướng hoạt động của họ trên nhiều phương diện và thành lập những hội đồng hương, hội giáo dục, hội hướng đạo, hay hội đoàn tôn giáo theo khuôn khổ pháp trị. Họ điều hành qua tinh thần tự nguyện, phần đông được đào tạo và khích lệ bởi các tổ chức tôn giáo hay văn hóa xã hội.
Ông Trần Hữu Quang, trong bài đăng trên Tạp Chí *Khoa học xã hội *năm 2009,* *tóm tắt bốn khái niệm XHDS được thay đổi quan điễm về các mối quan hệ giữa các lãnh vực chánh trị, kinh tế và xã hội. Ông nói là nhà chánh trị người Anh Thomas Hobbes là người đầu tiên sữ dụng thuật ngữ XHDS (societas civilis) đối lập với “tình trạng tự nhiên” trong quyễn *De Cive *xuất bản năm 1649. [1]
Vậy thì vào thế kỷ XVI-XVIII, Hobbes, cùng với John Locke và Jean Jacques Rousseau đồng hóa XHDS với nhà nước/quốc gia. Qua thế kỹ XVIII-XIX, cũng theo Ông Quang, thì Bernard Mandeville, Adam Ferguson và Adam Smith cho quan niệm XHDS là xã hội thị trường. Sau đó XHDS được coi như là xã hội tư sản với Georg Hegel, Karl Marx, Friedrich Engels và Antonio Gramsci vào thế kỹ XIX-XX. Qua đến thế kỹ XXI, những chuyển hóa về nội dung ý niệm XHDS phản ảnh những hòan cảnh cụ thể còn tồn tại được đến ngày nay như thế nào? Trong năm 2006, Louis Juste cho là “nó biểu hiện tình hình đấu tranh xã hội diễn ra trong những thời cơ nhứt định.” [2]
Tóm lại, XHDS cấu thành từ các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện tạo cơ sở đễ tự vận hành, khác vơi các cơ cấu quyền lực của nhà nước và các thể chế thương mại của thị trường. Có ba mẩu XHDS: 1) cứu tế cho nạn nhân chiến tranh hay tai hoạ gây ra, 2) phát triễn thễ chế xã hội, kinh tế, văn hóa và giáo dục, và 3) bành trướng các sinh hoạt xã hội (social action) tăng quyền lợi cá nhân và phát triễn ý thức hệ trong cộng đồng. Như thế mọi hoạt động bất vụ lợi cũng cần có phương tiện cụ thể, tiền bạc và cơ sở đễ sinh hoạt.
Trung tâm XHDS của Trường đại học kinh tế London định nghĩa XHDS như sau:
* *
*“XHDS đề cập tới các hoạt động tập thể tự nguyện xung quanh các giá trị, mục tiêu, ý thức chung. Về lý thuyết, các hình thái tổ chức XHDS khác biệt hẳn với các hình thái tổ chức nhà nước, gia đình và thị trường. Nhưng trong thực tế thì ranh giới giữa nhà nước, xã hội, gia đình và thị trường là khá lẫn lộn, mập mờ và không rõ ràng. XHDS thường bao gồm một sự đa dạng về phạm vi hoạt động, các thành viên tham gia và các hình thái tổ chức khác nhau về mức độ nghi lễ, tự do và quyền lực. XHDS thường được hình thành dưới dạng các hội từ thiện, các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các phong trào xã hội, các hiệp hội kinh doanh, các liên minh, và các đoàn luật sư.” *[3]
* *
*Xã Hội Dân Sự Toàn Cầu*
* *
Sự phát triễn của thễ chế XHDS trong những quốc gia Âu Châu từ cuối thập niên 1990 đã đem lại sự hình thành của Phong Trào Tân Xã Hội (New Social Movement.) Nó trở thành một khối quản trị thứ ba xây dựng thế lực toàn cầu không ranh giới, có tính cách chánh trị, sinh hoạt tranh đấu về ý thức hệ như chống bạo hành gia đình và công lực, chống đàn áp tôn giáo, chống áp đảo truyền thông báo chí, chống nạn buôn người hay bảo vệ môi trường. Những phong trào đó tạo thành Xã Hội Chánh Trị làm môi giới giữa nhà nước và dân chúng. [4]
Khái niệm XHDS mới chỉ được phổ biến rộng rãi trong vòng mấy chục năm gần đây vào thế kỷ XX, nhưng vào đầu thế kỹ XXI sinh hoạt đa dạng của XHDS được phổ biến rộng lớn mãi ra trên khắp thế giới. Trường hợp cụ thể của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế đặc trụ sở chính tại Geneve, Thụy Sĩ, được thiết lập trên 150 năm, phối hợp với các chi nhánh của từng quốc gia sở tại. Rotary Club có chi nhánh làm thiện nguyện khắp Năm Châu cũng ăn mừng 150 tuổi.
Những tổ chức bênh vực nhân quyền như Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International), Theo Dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch), Bác Sĩ Không Biên Giới (Médecins Sans Frontière), Ký Giả Không Biên Giới (Reporteurs Sans Frontieres), Bảo Vệ Môi Sinh (Green Peace) và Minh Bạch Quốc Tế (Transparency International) cũng như các tổ chức tôn giáo, y tế xã hội, văn hóa giáo dục, hoạt động trên toàn cầu, thì được quần chúng ưa chuộng hơn cơ quan nhà nước hay cơ sở thương mại. [5]
Như Hội Hướng Đạo có trụ sở chính tại London, Anh quốc, là một phong trào hướng dẫn sinh hoạt lành mạnh cho giới thanh thiếu niên khắp thế giới. Như tại Ấn Đô có từ 1 đên 2 triệu tổ chức lớn và nhỏ hoạt động từ thiện, còn ở bên Nga Sô thì cũng có đến 277,000 XHDS, phần đông do nhà cầm quyền Nga Sô thống trị.
Ngòai ra, vai trò trong giới đại học (academia) và các cơ quan chuyên nghiệp về kỹ thuật, khoa học, giáo dục, y tế, đóng góp sáng kiến thực tiễn ảnh hưỡng trong giới trí thức cũng như ảnh hưỡng quần chúng sâu rộng. Tuy hhiên, không cần phải là một tổ chức quy mô với tài chánh dồi dào mới có thễ hoạt động được. Những tổ chức nhỏ với ngân sách eo hẹp cũng hoạt động khá hiệu quã với tầm vóc quan trọng.
Riêng tại Hoa Kỳ, thống kê cho thấy Foundation Center gồm 11 cơ quan tài trợ cho 1 triệu tổ chức vô vị lợi và trên 3 triệu nhóm nhỏ hoạt động tự nguyện đễ phục vụ công ích. Các tổ chức nầy có hơn 60% phát xuất từ các tôn giáo phãn ãnh tinh thần phục vụ hy sinh rất cao về số nhân viên thiện nguyện làm việc cho các tổ chức nầy. Tuy vậy, có những nhân viên các tổ chức XHDS được trã lương cao với quyền lợi đãi ngộ được bảo đảm không thua các công chức nhà nước hay công ti xí nghiệp.
Như Hội AARP, với 6 triệu thành viên người hưu trí (American Association of Retired Persons) có ngân sách $640 triệu và thuê cã ngàn nhân viên làm việc trong những văn phòng toàn quốc ở Hoa Kỳ. Họ cũng trã tiền cho nhiều nhân viên đi vận động (lobby) trên quốc hội đễ bênh vực quyền lợi cho người từ 50 tuổi trở lên. [6]
Thống kê cũng cho biết người Mỹ đã chi ra 250 tỹ mỹ kim cho lãnh vực từ thiện và có tất cã 1.8 triệu tổ chức đã được chấp nhận được miễn phí trong năm 2007. Mổi năm có từ 75,000 đến 100,000 tổ chức XHDS nợp đơn đăng ký tại Hoa Kỳ.[7]
Nhu cầu đa diện của môt quốc gia chứng nhận là chánh quyền không thễ nào tự giãi quyết nổi nhiều vấn đề về chánh trị, kinh tế hay xã hội. Vì vậy, tổ chức XHDS bổ sung chớ không nhầm thay thế guồng mái nhà nước. Họ chỉ lấy công của dân làm căn bản giúp cho chánh quyền. Theo LS Đòan Thanh Liêm, những tổ chức XHDS đóng hai vai trò: vừa là đối tác (counterpart), vừa là đối trọng (counterbalance). [8]
Cụ thễ như các hội Hồng Thập Tự luôn hợp tác với nhà nước đễ lo sóc cho các nạn nhân thiên tai, bão lụt. Còn các hội phụ huynh học sinh, chẵng hạng thì hổ trợ nhà trường giúp mỡ mang trí tuệ và sức khõe cho các con em. Vì thế mà các cơ quan thiện nguyện còn được chánh quyền tài trợ hay cấp nhiều phương tiện khác cho họ thực hiện nhiều chương trình công ích.
Còn các hội tôn giáo (faith-based initiatives) hay nhân quyền thì đóng vai trò đối tượng đễ bênh vực cho những nạn nhân chống bất công, tham nhũng, lạm dụng mà nhân viên chánh quyền gây ra. Giới truyền thông báo chí, các đại học và những người có lý tưỡng như giới trẽ và sinh viên dám cang đãm đứng lên đễ thức tĩnh, cãnh giác, phê phán sai trái các nhân viên chánh quyền hay cơ quan doanh nghiệp tư nhân gây ra.
Nhờ có “kiễm soát đễ giữ sự quân bình” (checks & balance) của người dân cho nên bớt được một phần nào sự nhũng lạm và thiệt thoài của công dân trong xã hội. Đó là một nhu cầu chính đáng của người dân dự định, do người dân thực hiện, và cho người dân hưỡng thụ.
Những sự kiện giãm những khống chế, lạm quyền, thối nát đem lại những thay đổi trong xã hội như tôn trọng quyền tối thiểu của công dân sống trong một quốc gia theo thễ chế pháp trị. Từ đó những định hướng tự do cỡi mỡ, bảo trọng quyền lợi cho công dân đạt đến nhân quyền và dân chủ từ lần từ hồi được phát họa. Những phong trào chống nô lệ, bênh vực quyền lợi phu nữ và người da màu cho họ được quyền bỏ phiếu được đề cao và gia tăng.
Sau thế chiến thứ nhất , Liên Hiệp Quốc được thành lập đễ bàn luận về Sự Giãm Quân Bị trên thế giới (World Disarmement). Năm 1950, LHQ mời 1,000 NGO đến tham dự và biểu quyết chấp nhận làm việc chung. Họ coi các hiệp hôi tư nhân như là một khối tổ chức quốc tế “International NGO” phu giúp họ thực hiện những chương trình trong các quốc gia trên thế giới. Vì thế mà các NGO càng nhận được nhiều nguồn tài trợ từ cá nhân, từ quỹ tài trợ các foundations, từ tổ chức tư nhân và thương mại, từ chánh phủ và từ các tổ chức quốc tế. [9]
Năm 1970, các quốc gia giàu cam kết trích ra 0.7% GNI (lợi tức quốc gia - growth national income) tặng cho NGO thực hiện chương trình của họ cho các quốc gia đang mỡ mang. Viện Đại học John Hopskins nghiên cứu trong các năm 2000-2002 đưa ra tổng số $1,300 trĩ mỹ kim (trillion) do 35 quốc gia chi phí cho 40,000 ngàn nhân viên quốc tế làm việc trong khu vực XHDS nầy.
Như thế thì XHDS có thễ xếp vào hàng thứ 7 trong các nền kinh tế lớn nhất của thế giới ngày nay. Có thễ coi XHDS là một khối thế lực thứ ba (Third Force) trên thế giới và trong guồng mái của nhiều quốc gia từ Đông Tây đến Âu Á. Quan hệ quốc tế và quốc gia được khai thông trở thành quan hệ “mỡ” (open society) trong nhiều lãnh vực khai thông hai chiều trên nhiều lãnh vực không biễn cưỡng tuy các nếp sống cổ truyền vẩn được duy trì. Vì thế, nhiề u dân t ộc đa dạng, khác biệt về ngôn ngữ và truyền thống cũng sống chung với nhau và chia sẽ những giá trị và nếp sống chung trong một xã h ội
cỡi mỡ không biên giới như ngày hôm nay. [10]
Trong năm 2007, World Bank trích ra một tỹ mỹ kim tài trợ cho những chương trình cộng đồng. Carnegie Endowment for International Peace cho $20 tỹ trong năm 2007, còn Bill và Melinda Gates tặng $38 triệu cộng với $30 triệu của Ông Warren Buffet đễ chích ngừa cho 200 triệu trẽ em cũng như tài trợ cho nhiều chương trình giáo dục và xã hội khác. Vậy thế kỹ XXI là thế kỹ của bất vụ lợi (the Century of Non-Profit).
Các nguyên nhân nào đem đến sự đột phá của xã hội mới mẽ nầy (The New Social Movement)? Trưóc hết là vấn đề tài nguyên. Các chánh phũ ở Tây Âu kễ cã Mỹ không ngân sách đễ trang trãi mọi dịch vụ cho người dân, đặc biệt trong những năm 1970, giá dầu hỏa từ Trung Đông tăng quá cao làm lợi tức thu nhập quốc gia giảm nhiều. Do vậy, các cơ quan tư nhân gi úp đảm trách vai trò mà nhà nước không thễ phụ trách trên phương diện giáo dục, văn hóa và xã hội.
Hai nữa, quần chúng ở các nước Âu Mỹ kết hợp thành phong trào chống chiến tranh hạt nhân, chống phá hoại môi sinh, chống đàn áp nhân quyền. Nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và lãnh vực truyền thông nên sự liên đới quốc tế được kết hợp với tính cách toàn cầu và được phổ biến mau lẹ và liên tục.
Ba nữa là trong thời kỳ Cộng sản tại Liên Sô và các nước Đông Âu bị suy thoái, và sau bức tường Bá Linh xụp đổ năm 1989, công cuộc phục hồi XHDS được tiến hành mau lẹ dành cho gười dân cái quyền tự mình làm chủ vận mệnh. Quá trình chuyễn tiếp dân chủ (Democratic transition) nầy đang diễn ra tại tất cã các quốc gia cựu Cộng sản trừ Cuba, Bắc Đại Hàng, Trung Quốc và Việt nam. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rỏ sự thay đổi là một quá trình mà không thếnào đảo ngược lại được n ữa (irreversible process).
Chót nữa thì tổ chức XHDS còn thu hút nhiều tài năng trí tuệ xuất sắc, cho nên hoạt động của họ có năng xuất và hiệu quã rất cao. Do đầu óc sáng tạo, l òng nhiệt tâm, sự hy sinh cho lý tưỡng, phương thức ôn hòa bất bạo động, và hành động thiết thực nên những nhân viên phục vụ cho dân chúng gặt hái thành qủa tốt đẹp.
Hơn nữa, năn độ đa năng và đa nguyên của XHDS ở Hoa Kỳ và các nước mỡ mang còn ảnh hướng chính sách đối nội và đối ngoại, phát huy đời sống toàn diện của người dân từ kinh tế, xã hội, văn hóa và tôn giáo. Nó cũng bảo trọng nền dân chủ hữu hiệu từ hạ tần cơ sỡ như làng, xã, quận đến tĩnh và thành thị lên đến thượng tần cơ sỡ của chánh quyền như các nhà lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là hiện tượng thay đổi từ dưới lên trên, từ lòng dân lên đến chánh quyền, khác với những quốc gia có truyền thống chuyên chế, độc tài kiễm soát quyền hành từ trên xuống dưới.
Sự ảnh hưỡng của XHDS rất quan trọng đến chánh quyền. Nhân dịp viếng thăm Trung Quốc cuối tháng Năm năm 2010, Ngoại Trưỡng Hoa Kỳ Hillary Clinton gặp các phụ nữ XHDS (Chinese Women Civil Society) tại Beijing. Họ chia sẽ những vấn đề khó xữ như tham những, bạo hành gia đình, đàn áp, hãm hiếp, quyền phụ nữ và nhân quyền. Kết luận tất cả đồng ý là cần có sư đồng tâm và ưng thuận của các đâng nam nhi và chánh quyền mới giải quyết và thay đổi được những tình trạng nêu trên. [11]
*Xã Hội Dân Sự tại Việt **Nam***
* *
Sau khi thống nhứt đất nước thành một quốc gia không còn chia đôi trong năm1975, Việt Nam đã trãi qua nhiều thời kỳ thữ thách, từ trừng phạt bỏ tù cã trăm ngàn người miền nam cùng máu mủ, còn trừng phạt gây chiến với Cam Bốt, rồi đến trừng phạt đánh trận với đàn anh Trung Cộng. Việt Nam trở thành một nước nghèo đứng hạng thứ tư trên thế giới với lợi tức đầu người $200 một năm cho đến thập niên 1990.
Nhờ noi gương đổi mới của hai đàn anh Nga Sô và Trung Cộng nên sau đó Việt Nam đã bắt tay liên hệ với kẽ thù là đế quốc Mỹ năm 1995 và tiếp nhận nền kinh tế thị trường cởi mở theo tư bản. Từ năm 2000 trở lên, nền kinh tế Việt Nam đã được chấp nhận trên sân chơi quốc tế và phát triễn trên phương diện kinh tế lẫn xã hội với những đầu tư đáng kễ từ các nước phương tây. Những tiếp súc với bên ngoài về tài chánh, luật lệ, và ngành chuyên môn kỹ thuật với những tư tưỡng dân chủ đã làm thay đối tầm nhìn và triễn vọng của chẵng những của cấp lãnh đạo nhà cầm quyền Cộng sản, mà còn cho đa số người dân trong nước.
Từ đó, mức độ phát triễn kinh tế gia tăng và vượt lên đến 6.2 % trong năm 2008, hơn các quốc gia lân cận tại Đông Nam Á, với lợi tức đầu người $1,000 mổt năm. Tuy vậy, những sự kèm kẹp về tư tưỡng và chương trình hoạt động của người dân vẫn bị Bộ Chánh Trị Hà Nôi kiễm soát chặt chẽ. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam cũng có nhiều tổ chức tập đoàn họ thành lập ra đễ “dân cao danh nghĩa dân chủ của dân, do dân và vì dân.”
Hội đòan lớn nhưt là Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam hay Mặt Trận Dân
Tộc thống nhứt VN (Mặt Trận) đưa ra chánh sách cũng như liên minh và liên kết với các Câu lạc bộ được coi như là tổ chức XHDS. Mặt trận cũng phê chu ẫn các ứng cữ viên vào danh sách ứng cữ và đãm nhiệm luôn việc giám sát tất cã các cuộc bầu cữ. [12]
Các tổ chức ngoại vi nầy đươc thành lập bỡi Bộ chánh trị nhà nước gòm đãng
viên Đãng cộng sãn VN. 44 thành viên XHDS của Mặt Trận là Đãng cộng sãn VN, Tổng liên đoàn lao động, Hội nông dân, Đòan thanh niên cộng sản HCM, Hộiliên hi ệp phụ nữ VN, Hội cựu chiến binh, Liên hội khoa học kỹ thuật, Hội chữ thập đỏ, Phòng thương
mại và công nghiệp, Hội Phật Giáo, Ủy ban đoàn kết công giáo, Tổng hội thánh tin lành, Hội nhà báo, Hội liên lạc người VN ở nước ngoài, Hội luật gia cho đến Hội làm vườn.
Thành viên đứng đầu Mặt Trận là Đãng cộng sản có 3 triệu đãng viên, chiếm 3% dân số, chỉ thị cho các Câu lạc bộ hay tổ chức XHDS tuân theo đễ quãn trị họ. Đặc biệt trong Mặt Trận có Hội liên hiệp phụ nữ (VN Women’s Union), một tổ chức chánh trị gòm 1.5 triệu hội viên có nhiệm vụ phát triễn kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và xây dựng gia đình bảo vệ xã hội chủ nghĩa VN.
Trang nhà của Hôi phụ nữ xác nhận là 70% hội viên được tuyên truyền, phổbiên về chủ trương của Đãng và 100% Chủ Tịch và Phó CT Hội đạt tiêu chuẫn chức danh cán bô, công chức theo quy định. Vậy thì các thành viên phải vào đãng CS mới trở thành công chức và được làm việc an toàn. Họ phải tuân lệnh do đãng chĩ thị. Hội cũng đưa ra con số là 70% phụ nữ nghèo đươc Hội giúp xoá đói giãm nghèo. Vậy tại sao cơ quan quốc tế UNDP (Development Programme) đi ều tra và báo cáo là “nhóm 20% những người giàu nhất ở Việt nam hiện đang hưỡng tới 40% lợi ít từ các chính sách an sinh xã hội của nhà nước; trong khi nhóm 20% những người nghèo nhất chỉ nhận được 7% lợi ích từ nguồn nầy.” [13]
Như thế ta thấy rỏ là Đãng Cộng sản đứng ra tổ chức, điều động, bao trùm và lũng đoạn tât cã các sinh hoạt của lãnh vực XHDS chứ không có gi ới hạn trong phạm vi chánh quyền hay lãnh vực kinh tế mà thôi. Do đó XHDS bị “chánh trị hóa”, bị cai trị chuyên chế, bị công lực và công quyền đàn áp và bị kiềm kẹp. Quyền lực nằm trọn trong tay đãng tức là “đãng sự” chớ không phải trong tay của nhân dân tức “dân sự”. Thật ra thì các XHDS như thế được gọi là GONGO (Government organized NGO) chớ không phải là NGO (non-government organization).
Theo Điều 9 Hiến pháp (1992) quy định thì có đoạn như sau: “Nhà nước chăm lo và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cữ và cán bộ, viên chức nhà nước.” Những từ ngữ dân chủ mỹ miều nầy có được nhà nước áp dụng trung thực hay không?
Ngoài ra, ngày 26-3-2004, Trung ương đãng đã ban hành Nghi quyết 36 về “kế hoạch toàn diện nhằm vận động ba triệu người Việt ở nước ngoài “thành một bộ phận không thễ tách rời của cộng đồng dân tộc.” Còn ở bên nhà thì nhà nước thẳng tay đàn áp những cá nhân hay tổ chức tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Vậy thì lối thoát của sự bế tắc hiện nay như thế nào? [14]
GS Carl Thayer, nhà nghiên cứu về Việt nam thuộc Đại học New South Wales ở Sydney, Úc, trã lời phóng vấn của đài BBC tháng 8 năm 2008 như sau: “Ở Việt nam, những nhóm đang đòi hỏi có XHDS tức đòi chính quyền phải thực thi chính luật pháp của mình, qua đó công nhận có quyền lập hội, tụ tập, biểu tình, tự do tôn giáo. Những quyền nầy không được thực thi vì nhà chức trách luôn tìm lý do đễ ngăn cản thí dụ lý do gây rối an ninh trật tự đễ ngăn không cho biểu tình.”
Ông nói tiếp:”Những nhóm dân sự này gia tăng về con số và bắt đầu liên kết thành
những mạng lưới. Như vậy mạng lưới đang ngày càng phát triễn và tôi nghĩ rồi sẽ đến lúc các nhóm riêng lẽ không những thành lập phong trào mà còn gây sức ép nhiều lần đễ nhà nước
thực thi luật pháp theo các tiêu chuẩn quốc tế mà Việt nam đã cam k ết.” Ông Thayer kết
luận:”Có m ột điễm chung là những tiếng nói XHDS nầy được lắng nghe và tìm cách đưa vào trong guồng máy. Kịch bản khả dĩ nhất theo tôi là cuối cùng họ sẽ được phép nắm giữ những ghế trong quốc hội.”
Theo TS Hồ Bá Thâm thì “hiện nay có 320 hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc ở Việt nam và hơn 2,150 hội hoạt động trong phạm vi vi tính, thành phố trực thuộc Trung ương cùng có hàng ngàn hội ở các cơ sở.” Ông viết tiếp: “Các hội cũng rất đa dạng: có hội do tổ chức thành lập, có hội do cá nhân, doanh nghiệp, có hội có cơ cấu chặt chẽ nhưng có hội lại lỏng lẽo. Trung bình mỗi người là thành viên của 2.33 tổ chức, cao hơn nhiều nếu so với những nước trong khu vực châu Á, như Trung Quốc (0.39) và Singapore(0.86). Theo khảo sát nầy, tỹ lệ những người thuộc ít nhất một tổ chức là 73.5%, một tỹ lệ tương đối cao.” [15]
Ngoài các hội hoạt động trong nước thì có những NGO đáng kễ của người Việt đãm trách từ nước ngoài về Việt nam đầu tư, kinh doanh, họp tác khoa học, hoạt động nghề nghiệp, định cư lâu dài và cứu trợ.
Vai trò của những tổ chức cộng đồng hãi ngoại là một lực lượng có chất xám, có tài chánh dồi dào, có kỹ thuật cao độ, có kiến thức chuyên nghiệp, và có cã tấm lòng giúp cãi thiện đời sống gia đình, bà con và bạn bè tại quê nhà.
Nhóm 1% QGHC - Thông tin nội bộ QGHC Tỵ Nạn Hải Ngoại. Thiết lập từ 2008- Email Liên Lạc: cnguyqghc@gmail.com
Showing posts with label JackieBong. Show all posts
Showing posts with label JackieBong. Show all posts
Saturday, July 3, 2010
Sunday, May 9, 2010
Việt Nam, 35 năm sau chiến tranh:
Những bài không chịu học
Bài viết của Jackie Bông
1-Những huyền thoại về cuộc chiến
Đại Sứ John Negroponte, Cựu Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đã đặt ra một lô những chữ “Nếu” cho 150 người trong cử toạ, nhân phát biểu tại cuộc Hội Nghị được tổ chức ở Câu Lạc Bộ Army Navy Club tại Washington, nhằm lượng giá về Quân lực Việt nam Cộng hoà 35 năm sau khi chiến tranh kết thức.
“Nếu mà Tổng Thống Roosevelt còn sống thì nước Mỹ không ủng hộ cho người Pháp trở lại Việt nam? Nếu mà chúng ta biết rõ hơn về chuyện xích mích giữa Liên Xô và Trung quốc? Nếu mà Tổng thống Ngô Đình Diệm không bị ám sát? Nếu mà Tổng thống Nixon không bị dính líu vào vụ Watergate?” Nhưng vì do những cái trớ trêu bất thường cuả lịch sử đại loại như vậy mà sự việc đã xẩy ra khác hẳn đi.
Năm diễn giả chính yếu khác và 10 tham luận viên, cả người Việt và người Mỹ, đã phân tích những trận chiến mà họ coi là khúc quanh của cuộc chiến tranh Việt nam.
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968, những trận đánh lớn ở Huế, An Lộc, Quảng Trị; Quân lực Việt nam Cộng hoà, Hiệp định Hoà bình Paris, và nhửng bài học đã thu lượm đã được mổ xẻ trong các buổi thảo luận trong từng nhóm. Chủ ý cuả các tham luận viên rõ ràng là nhằm phục hồi lại danh dự cho Quân lực miền Nam Việt nam.
Tết Mậu thân 1968:
Tiến sĩ Erik Villard, sử gia, là diễn giả đầu tiên đã trình bày về cuộc tấn công nầy. Ông nói: “Đây đích thực là một cuộc nội chiến tại Nam Việt nam giữa người quốc gia Việt nam với quân Cộng sản xâm lăng từ miền Bắc. Ông mô tả trận chiến lừng danh này với quy mô và sự phức tạp trong kế hoạch cuả Việt cộng và sự phản công lúc đầu coi như tuyệt vọng, mà lại rất thành công của phía miền Nam và Đồng minh. Nhưng ông nói: “Bi đát thay cái sự thắng lợi nầy lại bị thế giới coi như là một thất bại.”
Đại tá Trần Minh Công bổ túc thêm. Ông nói đến 50 phần trăm quân đội VNCH được nghỉ phép ăn Tết giữa lúc quân Cộng Sản tấn công. Ông ra lệnh cho tiểu đoàn cảnh sát tiến chiếm lại Dinh Tổng Thống ở Saigon, trong khi các đơn vị khác thì hợp nhau lại để tái chiếm những đồn bót vừa mới bị Cộng quân chiếm giữ.
Tờ tuần báo Time tường thuật: “Quân lực Việt nam Cộng hoà phải gánh chiụ áp lực nặng nề lúc khởi đầu với sự dũng cảm và mau lẹ mà hầu như ít có ai lại có thể ngờ được.” Cố Đại sứ Ellsworth Bunker nói: “Chính phủ đã không xụp đổ. Trái lại, họ đã phản ứng mạnh bạo, mau mắn và quyết chí. Chính quyền đã tổ chức sự phục hồi với nỗ lực lớn lao.”
Đại tá Công phàn nàn: “Ấy thế mà giới truyền thông người Mỹ lại coi vụ Tết Mậu thân là ‘khởi sự cuộc chấm dứt chiến tranh’ Việt nam (The beginning of the end of the Vietnam War).”
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, học giả và cựu giãng viên tại Đại học George Mason kể lại: “Trong dịp tấn công Tết Mậu thân, cố đô Huế là nơi duy nhất quân Cộng sản đã thiết lập được một chính quyền dân sự. Họ phát động cuộc tàn sát, giết hại hàng ngàn người mà họ gọi là ‘kẻ thù của Cách mạng’ trong suốt 25 ngày chiếm đóng thành phố vào tháng Hai năm 1968.”
“Họ tàn sát đến 6,000 thường dân vô tội, bất kể đó là giáo sư đại học, giới kinh doanh, phụ nữ, người già và cả đến trẻ em, tạo ra viễn cảnh kinh hãi cuả chế độ Cộng sản. Hàng ngàn người bị coi là “tay sai Mỹ ngụy” đã bị tra tấn, giết hại và cả bị chôn sống do lệnh của Toà án Nhân dân Việt cộng mà gồm những cán bộ và dân làng được lựa chọn một cách ngẫu nhiên.”
Vẫn theo lời giáo sư Bích, “Vụ thảm sát ở Huế tương tự như ‘cánh đồng giết người’ (killing fields) dưới chế độ Pol Pot ở Cambodia, hay Lò Thiêu Người hồi thế chiến thứ hai cuả Đức quốc xã.”
Hội nghị cũng phản ánh quan điểm cuả các chuyên gia khác. Ông Lewis Sorley, sử gia chuyên về chiến tranh Việt nam và là giáo sư tại West Point và tại Học Viện Chiến tranh cuả Lục quân Mỹ, nói là hồi năm ngoái tại Đại học Texas Tech rằng những cái nhìn lệch lạc phát xuất từ chiến dịch bôi nhọ toàn thể chế độ miền Nam Việt nam và cuộc chiến đấu lâu dài và khó khăn cuả họ, cho đến lời tố cáo vô liêm sỉ cuả Jane Fonda cho rằng: “Các tù nhân Mỹ khi hồi hương mà đã tố cáo bị người Cộng sản tra tấn hạ nhục đều là những ‘kẻ nói dối’ và ‘giả hình’.”
Cuộc tấn công dịp Lễ Phục sinh 1972:
Trong ba tháng mà tỉnh An Lộc bị vây hãm vào tháng Tư 1972 cũng bị giới truyền thông Mỹ bóp méo sự thật. Tiến sĩ James Willbanks cho cử toạ thấy là: “Kết quả là cả hai bên đối chiến đều bị tổn thất kinh hoàng, nhưng cuối cùng thì quân đội kiên cường của miền Nam đã kiểm soát được thành phố, sau khi kết thúc trận chiến đẫm máu”.
Đại tá Phan Văn Huấn, Chỉ huy Lữ đoàn 81 Biệt cách Dù và Trung tá Nguyễn Lân phụ tá chỉ huy, kể lại họ đã đảy lui được quân đội Bắc Việt và ngăn chặn hướng tiến công cuả Cộng sản vào thủ đô Saigon, lập ra được vòng đai phòng thủ vững mạnh chống lại quân số lớn hơn hẳn cuả địch quân. Họ đã cầm cự được cuộc tấn công liên tục của Bắc quân, đẩy lui được ba vụ xung phong tấn công tới tấp từ phía địch quân.
Trận chiến ở Quảng Trị :
Ba nhân vật sau đây thảo luận về trận chiến nầy. Đó là Đại tá Phạm Văn Chung, Đại uý Nguyễn Việt và ông Dale Andrade, một sử gia và tác giả cuả ba cuốn sách về cuộc chiến tranh Việt nam. Các vị này tường trình rằng Sư đoàn 308 và hai trung đoàn độc lập cuả Quân đội miền Bắc vượt qua khu vực phi quân sự để tiến vào miền Nam, trong khi Sư đoàn 304 thì từ phiá Lào ở phiá Tây cũng xâm nhập vào. Đại quân đó quét sạch cả hệ thống căn cứ nhỏ của quân đội miền Nam có nhiệm vụ canh giữ quốc lộ 9, và tiến chiếm vùng thung lũng Quảng trị.
Mục tiêu cuả giới lãnh đạo Hà Nội là “tạo được một chiến thắng quyết định trong năm 1972 và bắt buộc cho đế quốc Mỹ phải thương thuyết việc chấm dứt chiến tranh từ vị thế cuả kẻ thất bại.” Quân đội miền Nam bị phân tán và rút lui, nhường đất cho Cộng quân. Nhưng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, một tướng lãnh xuất sắc cuả miền Nam đã được nắm quyền chỉ huy và lần hồi đã tái chiếm được miền Nam Quảng trị và cả thủ đô.
Quân đội Bắc Việt bị thương vong đến 100,000 quân là phân nửa tổng số lực lượng của họ, kể cả 40,000 quân bị tử trận, và còn bị mất phân nữa số chiến xa và trọng pháo. Kết quả là chính Tướng Võ Nguyên Giáp, người anh hùng đã đánh thắng người Pháp ở Điện Biên Phủ, đã bị loại ra khỏi vị trí chỉ huy quân đội Bắc Việt. Kết quả này đã không được giới truyền thông Mỹ tường thuật chính xác.
Có một bài học nào được rút ra chăng?
Nhiều người tin rằng người Mỹ hiểu biết rất ít về cuộc chiến tranh Việt nam, mặc dầu nó đã chấm dứt trên ba thập niên rồi. Trong một bài báo nhan đề “Lịch sử chứng minh kẻ thắng trận ở Việt nam đã sai lầm” được đăng tải trên Báo Wall Street vào tháng Tư năm 2000, Nghị sĩ James Webb đã liệt kê giới truyền thông báo chí, giới hàn lâm đại học và Hollywood là những nhóm “đã có trách nhiệm rất lớn cho thấy cuộc chiến được tưỡng nhớ là vừa không cần thiết và vừa không thể chiến thắng được.”
Hàng ngàn bài báo, cuốn sách, bản phúc trình quân sự, bài nghiên cứu trận đánh và các hồi ký về cuộc chiến tranh 10 năm vẫn tiếp tục không bị đem ra thách đố hay được chấp nhận như là những sự kiện mà không hề có sự phân tích chiều sâu trong giới sử gia. Người quá cố Douglas Pike là nhà phân tích chính trị đã viết rất nhiều về Việt nam, đã bình luận rằng: “đó là những người bị lừa bịp bởi giới ký giả ngu dốt của loại truyền hình thương mại và giới hàn lâm theo phe tả thiên lệch về một sứ mệnh ý thức hệ.”
Ông George Veith là một tác giả chuyên viết về Việt nam, mà hiện đang hoàn thành cuốn sách - Tháng Tư Đen: Cuộc Thất Trân cuả Nam Việt nam1975 - nói về những huyền thoại về sự sụp đổ của miền Nam Viêt nam.
Ông nói Hà Nội trông đợi chánh quyền Nam Việt nam sụp đổ một khi người Mỹ rút khỏi năm 1972. Nhưng sự việc đó đã không xẩy ra, và quân đội Việt nam lại mỗi ngày một mạnh hơn lên, như được chứng tỏ trong trận An Lộc và Quảng Trị vừa nêu trên. Thế rồi, từ năm 1973 cho đến tháng Ba năm 1975, quân đội miền Nam đã gây những thất bại nặng nề cho quân đội Bắc Việt, khiến cho Tướng Võ Nguyên Giáp bị mất chức. Ông Veith xác tín rằng quân lực Việt nam Cộng hoà không hề yếu kém và hèn nhát như giới truyền thông báo chí Mỹ thường tô vẽ ra.
Vì coi việc Tổng thống Nixon từ chức như là một dấu hiệu rằng người Mỹ sẽ bỏ rơi miền Nam, nên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Hà Nội mới quyết định ‘giải phóng’ miền Nam trong thời hạn 2 năm 1975-76 bằng cách tung ra những cuộc tấn công đại quy mô.
Họ đã vi phạm Hiệp định Đình chiến Paris mà họ đã ký kết với Hoa kỳ và miền Nam Việt nam. Khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt nam năm 1972 và Quốc hội cắt hết viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt nam vào tháng Ba năm 1974, ông Veith nói: “Với những bất lợi về điạ lý, quân đội miền Nam không thể nào ngăn chặn được một cuộc tấn công đồng loạt trên khắp cả nước mà không có sự trợ giúp của không lực Mỹ.”
Tham nhũng có phải là nguyên nhân gây ra sự xụp đổ cuả Nam Việt nam không? Ông Sorley thuật lại lời cuả Tom Polgar, giám đốc CIA ở Saigon lúc bấy giờ biện luận rằng: “nước nầy có thể tồn tại được dù với một chánh quyền thối nát, y như trường hợp của Phi luật tân, Nam Hàn, Thái Lan hay bất kỳ nước nào.” Trong một nước mà ngừơi công chức không được trả lương phải chăng, thì đều có nạn tham nhũng là chuyện thường xẩy ra trên đời.” Đại tá William Legro, Tuỳ viên Quân sự ở Việt nam cũng đồng ý như thế, ông nói: “tham nhũng không phải là nguyên nhân làm xụp đổ mà chính là sự giảm bớt đến độ zero mọi viện trợ cuả Mỹ mới là nguyên nhân. Chúng ta đã làm cái điều tai hại khủng khiếp đối với người miền Nam Việt nam.”
Cựu Đại sứ tại Mỹ Bùi Diễm là một trong những người đứng ra tổ chức cuộc hội nghị này cũng than phiền về việc Quóc hội Mỹ cắt hết viện trợ. “Tôi không thể không giận dữ trước sự việc bất công vì dự luật viện trợ quân sự bị bác bỏ tại Quốc Hội. Vấn đề chính yếu trong tâm trí tôi là số phận cuả hàng triệu người dân miền Nam Việt nam phải chiụ đựng như thế nào một khi Quốc Hội đã quyết định.”
Ông Sorley đưa ra những con số như sau: “Tại Việt nam, có thể có đến 65,000 người bị hạ sát bởi tay của những người tự nhận là quân giải phóng và có đến 250,000 người nữa bị chết trong các “trại cải tạo” tàn bạo. Hai triệu người bị bứng ra khỏi quê hương và tạo thành lớp người Việt nam tại hải ngoại.” Một phần tư triệu thuyền nhân đã bỏ mình ngoài biển khơi.
Ông Hoàng Đức Nhã, nguyên Tổng trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi là người phụ trách việc đúc kết cuả Đại hội nói: “Cuộc chiến Việt nam được nhìn qua lăng kính cuả người Mỹ khiến làm biến dạng méo mó sự thể tìm hiểu tại sao người Cộng sản chiến thắng và người quốc gia thua trận. Ông lưu ý cử tọa rằng, trong khi còn nguy khốn, miền Nam đã cố gắng xây dựng một chế độ dân chủ với một nền kinh tế lành mạnh, dựa trên nền tảng luật pháp. Đó là một cố gắng ít được nghe thấy trong một nước đang có chiến tranh.”
Ông nói tiếp: “Hơn thế nữa, ngay cả trước tình thế phải chiến đấu liên tục, chánh quyền cũng cho thi hành một chiến lược phát triển ba mặt về phát triển nông nghiệp, kỹ nghệ sử dụng nhiều lao động, và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Năm 1974, dầu khí đã được tìm thấy ngoài khơi bờ biển miền Nam. Ấy thế mà những thành tựu như thế lại ít được ai công nhận.”
Tiến sĩ Rufus Philipps, tác giả của cuốn sách mới đây mà được ca tụng rất nhiều - Why Vietnam Matters - đưa ra nhận định trong một tài liệu được chuẩn bị riêng cho Hội nghị. Ông trích dẫn câu trả lời cuả Tướng Maxwell Taylor cho câu hỏi tại sao chúng ta thất bại tại Viêt nam? Vị cưụ Đại sứ tại Việt nam nói vào hồi cuối cuộc đời của mình: “Chúng ta đã không hiểu kẻ địch, không hiểu người bạn đồng minh Nam Viêt nam, và cũng không hiểu chính chúng ta nữa. Chúng ta đã không hiểu làm sao mà đối phó với cái loại chiến tranh đó cho đến khi quá muộn. Từ lâu, giới hoạch định chính sách cấp cao ở Washington và giới lãnh đạo chóp bu của chúng ta ở tại chỗ, với lòng tự ái được thổi phồng bởi nghề nghiệp đầy hứa hẹn trong những nỗ lực cuả họ, thì họ lại ít có sự bao dung đối với những quan điểm khác biệt được dựa trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn không đồng ý với họ.”
Cuối cùng, Tiến sĩ Phillips có lời khuyên: “Người Mỹ chúng ta có một nhu cầu thiết tha là phải tìm hiểu các người bạn mà chúng ta muốn giúp. Chúng ta không thể áp đặt những giải pháp đã được làm sẵn tại Mỹ (made-in-America) , nhưng phải cùng làm việc chung như người đồng sự kể như là anh em với nhau, để chúng ta giúp các bạn đó tìm ra các giải pháp riêng của họ. Đó là những bài học chúng ta không được luôn luôn chú ý tiếp thu và không chịu học.”
Vietnam, 35 Years After: Lessons Not Always Learned
By Jackie Bong-Wright
Myths of the Vietnam War
At the Army Navy Club in Washington, speaking to a group convened to reassess the Armed Forces of the Republic of Vietnam (ARVN) 35 years after the Vietnam War, former Deputy Secretary of State John Negroponte had some rhetorical “What if” questions for the 150 participants.
“What if President Roosevelt had lived, and we had not supported the French return to Vietnam? What if we had known more about the rift between the Soviet Union and China? What if President Diem had not been assassinated? What if President Nixon had not been involved in the Watergate scandal?” But for the vagaries of history, matters might have turned out very differently.
Five other key speakers and 10 panelists, both Vietnamese and American, analyzed the battles they saw as turning points of the Vietnam War.
The Tet offensive; the battles of Hue, An Loc and Quang Tri; the Army of South Vietnam; the Paris Peace Accords, and lessons learned were dissected in the panel discussions. The panelists’ clear intent was to restore the reputation of the South Vietnamese armed forces.
The 1968 Tet Offensive: The first speaker, Dr. Erik Villard, a historian, said that a true civil war took place in South Vietnam between the Vietnamese nationalists in the South and the invading Communists from the North. He described the famous 1968 Tet Offensive, conveying the scope and complexity of the Viet Cong’s plan and the desperate, but ultimately successful, South Vietnamese and allied counterthrust. Tragically for South Vietnam, he said, the victory at Tet was seen by the world as a defeat.
Former Police Chief Col. Tran Minh Cong added that 50 percent of the ARVN troops were on holiday leave when the Communists struck. He ordered his police battalion to retake the Presidential Palace in Saigon, while other units joined forces to regain most of the outposts, which had been occupied by Viet Cong troops.
Time Magazine reported, “ARVN bore the brunt of the early fighting with bravery and elan, performing better than almost anyone would have expected.” To which the late Ambassador Ellsworth Bunker added, “The government did not fall apart. On the contrary, it reacted strongly, quickly and decisively. It set about the task of recovery with great energy.”
And yet, the American media decried the Tet Offensive as the “beginning of the end of the Vietnam War,” Col. Cong Tran complained.
Prof. Nguyen Ngoc Bich, a scholar and professor at George Mason University, recounted how, during the Tet offensive, the imperial city of Hue was the only place the Communists managed to set up a civilian authority. They went on a rampage, killing thousands of southern “enemies of the Revolution” during a 25-day occupation in February 1968.
“They killed indiscriminately around 6,000 men in academia and business, women, older people and even infants, giving a chilling preview of Communist rule. Thousands of Vietnamese, considered “American lackeys,” were tortured, killed and even buried alive by the Vietcong People’s Court, composed of young Communist cadres and villagers, selected at random.
The “Hue Massacre,” said Prof. Bich, was the equivalent of the “killing fields” under Cambodia’s Pol Pot or the Holocaust of WWII.
The conference echoed the views of other experts. Lewis Sorley, Vietnam war historian and a faculty member at West Point and the Army War College, said last year at Texas Tech University that such distorted views extended from wholesale defamation of the South Vietnamese and their conduct throughout a long and difficult struggle to Jane Fonda’s infamous claim that repatriated American prisoners of war who reported systematic abuse and torture by their captors were “liars” and “hypocrites.”
The 1972 Easter Offensive: The three-month siege of An Loc province in April of 1972 was also misinterpreted by the American media. “It resulted in a horrendous loss by both sides,” Dr. James Willbanks told the audience, “but at the end of the bloody fighting, the valiant South Vietnamese retained control of the city.”
Col. Phan Van Huan, Commander of the 81st Airborne Rangers, and his Deputy, LTC Nguyen Lan, recounted how they pushed back the Northern troops and blocked a direct North Vietnamese thrust toward Saigon, putting up a strong defense in the face of vastly superior enemy numbers. They held out against a sustained North Vietnamese attack, turning back three separate assaults.
The battle of Quang Tri was discussed by Col. Pham Van Chung, Captain Nguyen Viet, and Dale Andrade, a historian and author of three books on the Vietnam War. They reported that the North Vietnamese Army (NVA) 308th Division, and two independent regiments moved south across the Demilitarized Zone (DMZ) while their 304th Division rolled out of Laos from the west. They overran a network of small South Vietnamese bases guarding Highway 9 and then moved into the Quang Tri Valley.
The Hanoi leadership’s goal was “to gain decisive victory in 1972, and to force the U.S. imperialists to negotiate an end to the war from a position of defeat.” The South Vietnamese units splintered and retreated, ceding ground. But Lt. Gen. Ngo Quang Truong, one of South Vietnam’s best officers, was placed in command and slowly recaptured southern Quang Tri and its capital.
The NVA suffered more than 100,000 casualties - half of their forces, including 40,000 troops killed, and lost half its tanks and heavy artillery. As a result, Gen. Vo Nguyen Giap, who had defeated the French at Dien Bien Phu, was eased out as NVA commander. The result was not reported accurately by the American media.
Lessons Learned or Not?
Many believe that Americans know very little about the war in Vietnam, although it ended three decades ago. In his article “History Proves Vietnam Victors Wrong” in the Wall Street Journal, in April of 2000, Sen. James Webb identified the media, academia, and Hollywood as groups that “have a large stake in having the war remembered as both unnecessary and unwinnable.”
Thousands of articles, books, military reports, battle studies, and memoirs about the 10-year war continue to remain unchallenged or accepted as facts with no in-depth analysis among most historians. The late Douglas Pike, a political scientist who wrote extensively on Vietnam, commented on “those who were casually trashed by the ignorant commercial television reporters and the academic left-wingers bent on some ideological mission.”
George Veith, a writer on Vietnam who is now completing Black April: The Defeat of South Vietnam-1975, spoke of the myths about the fall of South Vietnam.
Veith said that Hanoi expected the government of Vietnam (GVN) to collapse once the U.S. withdrew in 1972. But it didn’t, and the ARVN actually grew stronger, as proved by the battles of An Loc and Quang Tri. Then, from 1973 until March 1975, the AVRN inflicted defeats on the NVA, provoking the dismissal of Vo Nguyen Giap. Veith was convinced that the ARVN was not the weak and cowardly army portrayed in the U.S. media.
Viewing the Nixon resignation as an indication that the U.S. was abandoning the South, the politburo in Hanoi decided to “liberate” the South within the two-year period 1975-1976, launching large-scale attacks.
They violated the Paris Peace Accords’ ceasefire agreement they had signed with the U.S. and South Vietnam. When the U.S. army withdrew in 1972 and the Congress cut off military and economic aid to the South in March 1974, Veith said, “ Given the country’s geographic disadvantages, the ARVN couldn’t stop a simultaneous, country-wide offensive without U.S. air power.“
Was corruption also the cause of the fall of Vietnam? Sorley cited CIA’s Tom Polgar, who argued that “the country could have survived with a corrupt government, just as the Philippines, or South Korea, or Thailand, or anywhere. In any county where you do not pay your civil service adequately, you can expect corruption. It’s a way of life.” Col. William LeGro, U.S. Defense Attache in Vietnam, agreed, “Corruption was not the cause of the collapse. The reduction to almost zero of U.S. support was the cause. We did a terrible thing to the south Vietnamese.”
Former Ambassador to Washington Bui Diem (1973 to 1975), one of the organizers of the conference, deplored the cut-off of aid by the U.S. Congress. “I could not help but rage at the unfairness of the bill for military aid which was defeated in Congress. The real issue in my mind was the kind of lives that millions of South Vietnamese would have to endure once this Congress had made its choice.”
Sorley again. “In Vietnam, perhaps 65,000 people were executed by their self-proclaimed liberators. As many as 250,000 more died in the brutal “re-education” camps. Two million were driven from their homeland and formed a new Vietnamese diaspora.” A quarter of a million boat people perished at sea.
Hoang Duc Nha, former Minister of Information and Open Arms in South Vietnam, was he wind-up speaker. He said that the Vietnam war tended to be seen here through an American prism that distorted why the Communists won and the nationalists lost. He reminded the audience that, while South Vietnam was in harm’s way, the government was also racing to build the nation a democracy with a sound economic system, based on the rule of law, an unheard-of effort by a country at war.
Furthermore, even in the face of continued warfare, the government also implemented a three-pronged growth strategy driven by agricultural development, labor intensive industry, and exploitation of natural resources. In 1974, he noted, oil was found off the coast of South Vietnam. Yet, Vietnam got scant recognition for these achievements.
Dr. Rufus Phillips, author of the recent and highly acclaimed book, Why Vietnam Matters, offered his own insights in a paper prepared for the conference. He quoted Gen. Maxwell Taylor’s reply to the question of why we failed in Vietnam? This former U.S. Ambassador to Vietnam said toward the end of his life, “We didn’t understand the enemy, our South Vietnamese allies or even ourselves. We didn’t understand how to fight that kind of war until it was too late. For too long, top policy makers in Washington and our top leaders on the ground, with egos inflated by meritorious careers in their endeavors, had a low tolerance for different views based on first-hand experience.”
In the end, Dr. Phillips had this advice: “There was a vital need for us, as Americans, to understand you, the people we were trying to help, and not to impose made-in-America solutions, but to work as cohorts, even as brothers, to help you develop your own solutions. These were lessons not always learned.”
Những bài không chịu học
Bài viết của Jackie Bông
1-Những huyền thoại về cuộc chiến
Đại Sứ John Negroponte, Cựu Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đã đặt ra một lô những chữ “Nếu” cho 150 người trong cử toạ, nhân phát biểu tại cuộc Hội Nghị được tổ chức ở Câu Lạc Bộ Army Navy Club tại Washington, nhằm lượng giá về Quân lực Việt nam Cộng hoà 35 năm sau khi chiến tranh kết thức.
“Nếu mà Tổng Thống Roosevelt còn sống thì nước Mỹ không ủng hộ cho người Pháp trở lại Việt nam? Nếu mà chúng ta biết rõ hơn về chuyện xích mích giữa Liên Xô và Trung quốc? Nếu mà Tổng thống Ngô Đình Diệm không bị ám sát? Nếu mà Tổng thống Nixon không bị dính líu vào vụ Watergate?” Nhưng vì do những cái trớ trêu bất thường cuả lịch sử đại loại như vậy mà sự việc đã xẩy ra khác hẳn đi.
Năm diễn giả chính yếu khác và 10 tham luận viên, cả người Việt và người Mỹ, đã phân tích những trận chiến mà họ coi là khúc quanh của cuộc chiến tranh Việt nam.
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968, những trận đánh lớn ở Huế, An Lộc, Quảng Trị; Quân lực Việt nam Cộng hoà, Hiệp định Hoà bình Paris, và nhửng bài học đã thu lượm đã được mổ xẻ trong các buổi thảo luận trong từng nhóm. Chủ ý cuả các tham luận viên rõ ràng là nhằm phục hồi lại danh dự cho Quân lực miền Nam Việt nam.
Tết Mậu thân 1968:
Tiến sĩ Erik Villard, sử gia, là diễn giả đầu tiên đã trình bày về cuộc tấn công nầy. Ông nói: “Đây đích thực là một cuộc nội chiến tại Nam Việt nam giữa người quốc gia Việt nam với quân Cộng sản xâm lăng từ miền Bắc. Ông mô tả trận chiến lừng danh này với quy mô và sự phức tạp trong kế hoạch cuả Việt cộng và sự phản công lúc đầu coi như tuyệt vọng, mà lại rất thành công của phía miền Nam và Đồng minh. Nhưng ông nói: “Bi đát thay cái sự thắng lợi nầy lại bị thế giới coi như là một thất bại.”
Đại tá Trần Minh Công bổ túc thêm. Ông nói đến 50 phần trăm quân đội VNCH được nghỉ phép ăn Tết giữa lúc quân Cộng Sản tấn công. Ông ra lệnh cho tiểu đoàn cảnh sát tiến chiếm lại Dinh Tổng Thống ở Saigon, trong khi các đơn vị khác thì hợp nhau lại để tái chiếm những đồn bót vừa mới bị Cộng quân chiếm giữ.
Tờ tuần báo Time tường thuật: “Quân lực Việt nam Cộng hoà phải gánh chiụ áp lực nặng nề lúc khởi đầu với sự dũng cảm và mau lẹ mà hầu như ít có ai lại có thể ngờ được.” Cố Đại sứ Ellsworth Bunker nói: “Chính phủ đã không xụp đổ. Trái lại, họ đã phản ứng mạnh bạo, mau mắn và quyết chí. Chính quyền đã tổ chức sự phục hồi với nỗ lực lớn lao.”
Đại tá Công phàn nàn: “Ấy thế mà giới truyền thông người Mỹ lại coi vụ Tết Mậu thân là ‘khởi sự cuộc chấm dứt chiến tranh’ Việt nam (The beginning of the end of the Vietnam War).”
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, học giả và cựu giãng viên tại Đại học George Mason kể lại: “Trong dịp tấn công Tết Mậu thân, cố đô Huế là nơi duy nhất quân Cộng sản đã thiết lập được một chính quyền dân sự. Họ phát động cuộc tàn sát, giết hại hàng ngàn người mà họ gọi là ‘kẻ thù của Cách mạng’ trong suốt 25 ngày chiếm đóng thành phố vào tháng Hai năm 1968.”
“Họ tàn sát đến 6,000 thường dân vô tội, bất kể đó là giáo sư đại học, giới kinh doanh, phụ nữ, người già và cả đến trẻ em, tạo ra viễn cảnh kinh hãi cuả chế độ Cộng sản. Hàng ngàn người bị coi là “tay sai Mỹ ngụy” đã bị tra tấn, giết hại và cả bị chôn sống do lệnh của Toà án Nhân dân Việt cộng mà gồm những cán bộ và dân làng được lựa chọn một cách ngẫu nhiên.”
Vẫn theo lời giáo sư Bích, “Vụ thảm sát ở Huế tương tự như ‘cánh đồng giết người’ (killing fields) dưới chế độ Pol Pot ở Cambodia, hay Lò Thiêu Người hồi thế chiến thứ hai cuả Đức quốc xã.”
Hội nghị cũng phản ánh quan điểm cuả các chuyên gia khác. Ông Lewis Sorley, sử gia chuyên về chiến tranh Việt nam và là giáo sư tại West Point và tại Học Viện Chiến tranh cuả Lục quân Mỹ, nói là hồi năm ngoái tại Đại học Texas Tech rằng những cái nhìn lệch lạc phát xuất từ chiến dịch bôi nhọ toàn thể chế độ miền Nam Việt nam và cuộc chiến đấu lâu dài và khó khăn cuả họ, cho đến lời tố cáo vô liêm sỉ cuả Jane Fonda cho rằng: “Các tù nhân Mỹ khi hồi hương mà đã tố cáo bị người Cộng sản tra tấn hạ nhục đều là những ‘kẻ nói dối’ và ‘giả hình’.”
Cuộc tấn công dịp Lễ Phục sinh 1972:
Trong ba tháng mà tỉnh An Lộc bị vây hãm vào tháng Tư 1972 cũng bị giới truyền thông Mỹ bóp méo sự thật. Tiến sĩ James Willbanks cho cử toạ thấy là: “Kết quả là cả hai bên đối chiến đều bị tổn thất kinh hoàng, nhưng cuối cùng thì quân đội kiên cường của miền Nam đã kiểm soát được thành phố, sau khi kết thúc trận chiến đẫm máu”.
Đại tá Phan Văn Huấn, Chỉ huy Lữ đoàn 81 Biệt cách Dù và Trung tá Nguyễn Lân phụ tá chỉ huy, kể lại họ đã đảy lui được quân đội Bắc Việt và ngăn chặn hướng tiến công cuả Cộng sản vào thủ đô Saigon, lập ra được vòng đai phòng thủ vững mạnh chống lại quân số lớn hơn hẳn cuả địch quân. Họ đã cầm cự được cuộc tấn công liên tục của Bắc quân, đẩy lui được ba vụ xung phong tấn công tới tấp từ phía địch quân.
Trận chiến ở Quảng Trị :
Ba nhân vật sau đây thảo luận về trận chiến nầy. Đó là Đại tá Phạm Văn Chung, Đại uý Nguyễn Việt và ông Dale Andrade, một sử gia và tác giả cuả ba cuốn sách về cuộc chiến tranh Việt nam. Các vị này tường trình rằng Sư đoàn 308 và hai trung đoàn độc lập cuả Quân đội miền Bắc vượt qua khu vực phi quân sự để tiến vào miền Nam, trong khi Sư đoàn 304 thì từ phiá Lào ở phiá Tây cũng xâm nhập vào. Đại quân đó quét sạch cả hệ thống căn cứ nhỏ của quân đội miền Nam có nhiệm vụ canh giữ quốc lộ 9, và tiến chiếm vùng thung lũng Quảng trị.
Mục tiêu cuả giới lãnh đạo Hà Nội là “tạo được một chiến thắng quyết định trong năm 1972 và bắt buộc cho đế quốc Mỹ phải thương thuyết việc chấm dứt chiến tranh từ vị thế cuả kẻ thất bại.” Quân đội miền Nam bị phân tán và rút lui, nhường đất cho Cộng quân. Nhưng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, một tướng lãnh xuất sắc cuả miền Nam đã được nắm quyền chỉ huy và lần hồi đã tái chiếm được miền Nam Quảng trị và cả thủ đô.
Quân đội Bắc Việt bị thương vong đến 100,000 quân là phân nửa tổng số lực lượng của họ, kể cả 40,000 quân bị tử trận, và còn bị mất phân nữa số chiến xa và trọng pháo. Kết quả là chính Tướng Võ Nguyên Giáp, người anh hùng đã đánh thắng người Pháp ở Điện Biên Phủ, đã bị loại ra khỏi vị trí chỉ huy quân đội Bắc Việt. Kết quả này đã không được giới truyền thông Mỹ tường thuật chính xác.
Có một bài học nào được rút ra chăng?
Nhiều người tin rằng người Mỹ hiểu biết rất ít về cuộc chiến tranh Việt nam, mặc dầu nó đã chấm dứt trên ba thập niên rồi. Trong một bài báo nhan đề “Lịch sử chứng minh kẻ thắng trận ở Việt nam đã sai lầm” được đăng tải trên Báo Wall Street vào tháng Tư năm 2000, Nghị sĩ James Webb đã liệt kê giới truyền thông báo chí, giới hàn lâm đại học và Hollywood là những nhóm “đã có trách nhiệm rất lớn cho thấy cuộc chiến được tưỡng nhớ là vừa không cần thiết và vừa không thể chiến thắng được.”
Hàng ngàn bài báo, cuốn sách, bản phúc trình quân sự, bài nghiên cứu trận đánh và các hồi ký về cuộc chiến tranh 10 năm vẫn tiếp tục không bị đem ra thách đố hay được chấp nhận như là những sự kiện mà không hề có sự phân tích chiều sâu trong giới sử gia. Người quá cố Douglas Pike là nhà phân tích chính trị đã viết rất nhiều về Việt nam, đã bình luận rằng: “đó là những người bị lừa bịp bởi giới ký giả ngu dốt của loại truyền hình thương mại và giới hàn lâm theo phe tả thiên lệch về một sứ mệnh ý thức hệ.”
Ông George Veith là một tác giả chuyên viết về Việt nam, mà hiện đang hoàn thành cuốn sách - Tháng Tư Đen: Cuộc Thất Trân cuả Nam Việt nam1975 - nói về những huyền thoại về sự sụp đổ của miền Nam Viêt nam.
Ông nói Hà Nội trông đợi chánh quyền Nam Việt nam sụp đổ một khi người Mỹ rút khỏi năm 1972. Nhưng sự việc đó đã không xẩy ra, và quân đội Việt nam lại mỗi ngày một mạnh hơn lên, như được chứng tỏ trong trận An Lộc và Quảng Trị vừa nêu trên. Thế rồi, từ năm 1973 cho đến tháng Ba năm 1975, quân đội miền Nam đã gây những thất bại nặng nề cho quân đội Bắc Việt, khiến cho Tướng Võ Nguyên Giáp bị mất chức. Ông Veith xác tín rằng quân lực Việt nam Cộng hoà không hề yếu kém và hèn nhát như giới truyền thông báo chí Mỹ thường tô vẽ ra.
Vì coi việc Tổng thống Nixon từ chức như là một dấu hiệu rằng người Mỹ sẽ bỏ rơi miền Nam, nên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Hà Nội mới quyết định ‘giải phóng’ miền Nam trong thời hạn 2 năm 1975-76 bằng cách tung ra những cuộc tấn công đại quy mô.
Họ đã vi phạm Hiệp định Đình chiến Paris mà họ đã ký kết với Hoa kỳ và miền Nam Việt nam. Khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt nam năm 1972 và Quốc hội cắt hết viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt nam vào tháng Ba năm 1974, ông Veith nói: “Với những bất lợi về điạ lý, quân đội miền Nam không thể nào ngăn chặn được một cuộc tấn công đồng loạt trên khắp cả nước mà không có sự trợ giúp của không lực Mỹ.”
Tham nhũng có phải là nguyên nhân gây ra sự xụp đổ cuả Nam Việt nam không? Ông Sorley thuật lại lời cuả Tom Polgar, giám đốc CIA ở Saigon lúc bấy giờ biện luận rằng: “nước nầy có thể tồn tại được dù với một chánh quyền thối nát, y như trường hợp của Phi luật tân, Nam Hàn, Thái Lan hay bất kỳ nước nào.” Trong một nước mà ngừơi công chức không được trả lương phải chăng, thì đều có nạn tham nhũng là chuyện thường xẩy ra trên đời.” Đại tá William Legro, Tuỳ viên Quân sự ở Việt nam cũng đồng ý như thế, ông nói: “tham nhũng không phải là nguyên nhân làm xụp đổ mà chính là sự giảm bớt đến độ zero mọi viện trợ cuả Mỹ mới là nguyên nhân. Chúng ta đã làm cái điều tai hại khủng khiếp đối với người miền Nam Việt nam.”
Cựu Đại sứ tại Mỹ Bùi Diễm là một trong những người đứng ra tổ chức cuộc hội nghị này cũng than phiền về việc Quóc hội Mỹ cắt hết viện trợ. “Tôi không thể không giận dữ trước sự việc bất công vì dự luật viện trợ quân sự bị bác bỏ tại Quốc Hội. Vấn đề chính yếu trong tâm trí tôi là số phận cuả hàng triệu người dân miền Nam Việt nam phải chiụ đựng như thế nào một khi Quốc Hội đã quyết định.”
Ông Sorley đưa ra những con số như sau: “Tại Việt nam, có thể có đến 65,000 người bị hạ sát bởi tay của những người tự nhận là quân giải phóng và có đến 250,000 người nữa bị chết trong các “trại cải tạo” tàn bạo. Hai triệu người bị bứng ra khỏi quê hương và tạo thành lớp người Việt nam tại hải ngoại.” Một phần tư triệu thuyền nhân đã bỏ mình ngoài biển khơi.
Ông Hoàng Đức Nhã, nguyên Tổng trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi là người phụ trách việc đúc kết cuả Đại hội nói: “Cuộc chiến Việt nam được nhìn qua lăng kính cuả người Mỹ khiến làm biến dạng méo mó sự thể tìm hiểu tại sao người Cộng sản chiến thắng và người quốc gia thua trận. Ông lưu ý cử tọa rằng, trong khi còn nguy khốn, miền Nam đã cố gắng xây dựng một chế độ dân chủ với một nền kinh tế lành mạnh, dựa trên nền tảng luật pháp. Đó là một cố gắng ít được nghe thấy trong một nước đang có chiến tranh.”
Ông nói tiếp: “Hơn thế nữa, ngay cả trước tình thế phải chiến đấu liên tục, chánh quyền cũng cho thi hành một chiến lược phát triển ba mặt về phát triển nông nghiệp, kỹ nghệ sử dụng nhiều lao động, và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Năm 1974, dầu khí đã được tìm thấy ngoài khơi bờ biển miền Nam. Ấy thế mà những thành tựu như thế lại ít được ai công nhận.”
Tiến sĩ Rufus Philipps, tác giả của cuốn sách mới đây mà được ca tụng rất nhiều - Why Vietnam Matters - đưa ra nhận định trong một tài liệu được chuẩn bị riêng cho Hội nghị. Ông trích dẫn câu trả lời cuả Tướng Maxwell Taylor cho câu hỏi tại sao chúng ta thất bại tại Viêt nam? Vị cưụ Đại sứ tại Việt nam nói vào hồi cuối cuộc đời của mình: “Chúng ta đã không hiểu kẻ địch, không hiểu người bạn đồng minh Nam Viêt nam, và cũng không hiểu chính chúng ta nữa. Chúng ta đã không hiểu làm sao mà đối phó với cái loại chiến tranh đó cho đến khi quá muộn. Từ lâu, giới hoạch định chính sách cấp cao ở Washington và giới lãnh đạo chóp bu của chúng ta ở tại chỗ, với lòng tự ái được thổi phồng bởi nghề nghiệp đầy hứa hẹn trong những nỗ lực cuả họ, thì họ lại ít có sự bao dung đối với những quan điểm khác biệt được dựa trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn không đồng ý với họ.”
Cuối cùng, Tiến sĩ Phillips có lời khuyên: “Người Mỹ chúng ta có một nhu cầu thiết tha là phải tìm hiểu các người bạn mà chúng ta muốn giúp. Chúng ta không thể áp đặt những giải pháp đã được làm sẵn tại Mỹ (made-in-America) , nhưng phải cùng làm việc chung như người đồng sự kể như là anh em với nhau, để chúng ta giúp các bạn đó tìm ra các giải pháp riêng của họ. Đó là những bài học chúng ta không được luôn luôn chú ý tiếp thu và không chịu học.”
Vietnam, 35 Years After: Lessons Not Always Learned
By Jackie Bong-Wright
Myths of the Vietnam War
At the Army Navy Club in Washington, speaking to a group convened to reassess the Armed Forces of the Republic of Vietnam (ARVN) 35 years after the Vietnam War, former Deputy Secretary of State John Negroponte had some rhetorical “What if” questions for the 150 participants.
“What if President Roosevelt had lived, and we had not supported the French return to Vietnam? What if we had known more about the rift between the Soviet Union and China? What if President Diem had not been assassinated? What if President Nixon had not been involved in the Watergate scandal?” But for the vagaries of history, matters might have turned out very differently.
Five other key speakers and 10 panelists, both Vietnamese and American, analyzed the battles they saw as turning points of the Vietnam War.
The Tet offensive; the battles of Hue, An Loc and Quang Tri; the Army of South Vietnam; the Paris Peace Accords, and lessons learned were dissected in the panel discussions. The panelists’ clear intent was to restore the reputation of the South Vietnamese armed forces.
The 1968 Tet Offensive: The first speaker, Dr. Erik Villard, a historian, said that a true civil war took place in South Vietnam between the Vietnamese nationalists in the South and the invading Communists from the North. He described the famous 1968 Tet Offensive, conveying the scope and complexity of the Viet Cong’s plan and the desperate, but ultimately successful, South Vietnamese and allied counterthrust. Tragically for South Vietnam, he said, the victory at Tet was seen by the world as a defeat.
Former Police Chief Col. Tran Minh Cong added that 50 percent of the ARVN troops were on holiday leave when the Communists struck. He ordered his police battalion to retake the Presidential Palace in Saigon, while other units joined forces to regain most of the outposts, which had been occupied by Viet Cong troops.
Time Magazine reported, “ARVN bore the brunt of the early fighting with bravery and elan, performing better than almost anyone would have expected.” To which the late Ambassador Ellsworth Bunker added, “The government did not fall apart. On the contrary, it reacted strongly, quickly and decisively. It set about the task of recovery with great energy.”
And yet, the American media decried the Tet Offensive as the “beginning of the end of the Vietnam War,” Col. Cong Tran complained.
Prof. Nguyen Ngoc Bich, a scholar and professor at George Mason University, recounted how, during the Tet offensive, the imperial city of Hue was the only place the Communists managed to set up a civilian authority. They went on a rampage, killing thousands of southern “enemies of the Revolution” during a 25-day occupation in February 1968.
“They killed indiscriminately around 6,000 men in academia and business, women, older people and even infants, giving a chilling preview of Communist rule. Thousands of Vietnamese, considered “American lackeys,” were tortured, killed and even buried alive by the Vietcong People’s Court, composed of young Communist cadres and villagers, selected at random.
The “Hue Massacre,” said Prof. Bich, was the equivalent of the “killing fields” under Cambodia’s Pol Pot or the Holocaust of WWII.
The conference echoed the views of other experts. Lewis Sorley, Vietnam war historian and a faculty member at West Point and the Army War College, said last year at Texas Tech University that such distorted views extended from wholesale defamation of the South Vietnamese and their conduct throughout a long and difficult struggle to Jane Fonda’s infamous claim that repatriated American prisoners of war who reported systematic abuse and torture by their captors were “liars” and “hypocrites.”
The 1972 Easter Offensive: The three-month siege of An Loc province in April of 1972 was also misinterpreted by the American media. “It resulted in a horrendous loss by both sides,” Dr. James Willbanks told the audience, “but at the end of the bloody fighting, the valiant South Vietnamese retained control of the city.”
Col. Phan Van Huan, Commander of the 81st Airborne Rangers, and his Deputy, LTC Nguyen Lan, recounted how they pushed back the Northern troops and blocked a direct North Vietnamese thrust toward Saigon, putting up a strong defense in the face of vastly superior enemy numbers. They held out against a sustained North Vietnamese attack, turning back three separate assaults.
The battle of Quang Tri was discussed by Col. Pham Van Chung, Captain Nguyen Viet, and Dale Andrade, a historian and author of three books on the Vietnam War. They reported that the North Vietnamese Army (NVA) 308th Division, and two independent regiments moved south across the Demilitarized Zone (DMZ) while their 304th Division rolled out of Laos from the west. They overran a network of small South Vietnamese bases guarding Highway 9 and then moved into the Quang Tri Valley.
The Hanoi leadership’s goal was “to gain decisive victory in 1972, and to force the U.S. imperialists to negotiate an end to the war from a position of defeat.” The South Vietnamese units splintered and retreated, ceding ground. But Lt. Gen. Ngo Quang Truong, one of South Vietnam’s best officers, was placed in command and slowly recaptured southern Quang Tri and its capital.
The NVA suffered more than 100,000 casualties - half of their forces, including 40,000 troops killed, and lost half its tanks and heavy artillery. As a result, Gen. Vo Nguyen Giap, who had defeated the French at Dien Bien Phu, was eased out as NVA commander. The result was not reported accurately by the American media.
Lessons Learned or Not?
Many believe that Americans know very little about the war in Vietnam, although it ended three decades ago. In his article “History Proves Vietnam Victors Wrong” in the Wall Street Journal, in April of 2000, Sen. James Webb identified the media, academia, and Hollywood as groups that “have a large stake in having the war remembered as both unnecessary and unwinnable.”
Thousands of articles, books, military reports, battle studies, and memoirs about the 10-year war continue to remain unchallenged or accepted as facts with no in-depth analysis among most historians. The late Douglas Pike, a political scientist who wrote extensively on Vietnam, commented on “those who were casually trashed by the ignorant commercial television reporters and the academic left-wingers bent on some ideological mission.”
George Veith, a writer on Vietnam who is now completing Black April: The Defeat of South Vietnam-1975, spoke of the myths about the fall of South Vietnam.
Veith said that Hanoi expected the government of Vietnam (GVN) to collapse once the U.S. withdrew in 1972. But it didn’t, and the ARVN actually grew stronger, as proved by the battles of An Loc and Quang Tri. Then, from 1973 until March 1975, the AVRN inflicted defeats on the NVA, provoking the dismissal of Vo Nguyen Giap. Veith was convinced that the ARVN was not the weak and cowardly army portrayed in the U.S. media.
Viewing the Nixon resignation as an indication that the U.S. was abandoning the South, the politburo in Hanoi decided to “liberate” the South within the two-year period 1975-1976, launching large-scale attacks.
They violated the Paris Peace Accords’ ceasefire agreement they had signed with the U.S. and South Vietnam. When the U.S. army withdrew in 1972 and the Congress cut off military and economic aid to the South in March 1974, Veith said, “ Given the country’s geographic disadvantages, the ARVN couldn’t stop a simultaneous, country-wide offensive without U.S. air power.“
Was corruption also the cause of the fall of Vietnam? Sorley cited CIA’s Tom Polgar, who argued that “the country could have survived with a corrupt government, just as the Philippines, or South Korea, or Thailand, or anywhere. In any county where you do not pay your civil service adequately, you can expect corruption. It’s a way of life.” Col. William LeGro, U.S. Defense Attache in Vietnam, agreed, “Corruption was not the cause of the collapse. The reduction to almost zero of U.S. support was the cause. We did a terrible thing to the south Vietnamese.”
Former Ambassador to Washington Bui Diem (1973 to 1975), one of the organizers of the conference, deplored the cut-off of aid by the U.S. Congress. “I could not help but rage at the unfairness of the bill for military aid which was defeated in Congress. The real issue in my mind was the kind of lives that millions of South Vietnamese would have to endure once this Congress had made its choice.”
Sorley again. “In Vietnam, perhaps 65,000 people were executed by their self-proclaimed liberators. As many as 250,000 more died in the brutal “re-education” camps. Two million were driven from their homeland and formed a new Vietnamese diaspora.” A quarter of a million boat people perished at sea.
Hoang Duc Nha, former Minister of Information and Open Arms in South Vietnam, was he wind-up speaker. He said that the Vietnam war tended to be seen here through an American prism that distorted why the Communists won and the nationalists lost. He reminded the audience that, while South Vietnam was in harm’s way, the government was also racing to build the nation a democracy with a sound economic system, based on the rule of law, an unheard-of effort by a country at war.
Furthermore, even in the face of continued warfare, the government also implemented a three-pronged growth strategy driven by agricultural development, labor intensive industry, and exploitation of natural resources. In 1974, he noted, oil was found off the coast of South Vietnam. Yet, Vietnam got scant recognition for these achievements.
Dr. Rufus Phillips, author of the recent and highly acclaimed book, Why Vietnam Matters, offered his own insights in a paper prepared for the conference. He quoted Gen. Maxwell Taylor’s reply to the question of why we failed in Vietnam? This former U.S. Ambassador to Vietnam said toward the end of his life, “We didn’t understand the enemy, our South Vietnamese allies or even ourselves. We didn’t understand how to fight that kind of war until it was too late. For too long, top policy makers in Washington and our top leaders on the ground, with egos inflated by meritorious careers in their endeavors, had a low tolerance for different views based on first-hand experience.”
In the end, Dr. Phillips had this advice: “There was a vital need for us, as Americans, to understand you, the people we were trying to help, and not to impose made-in-America solutions, but to work as cohorts, even as brothers, to help you develop your own solutions. These were lessons not always learned.”
Thursday, November 12, 2009
CÂU CHUYỆN TẠ VĂN TÀI và Bà JACKIE BÔNG SẮP NỔ LỚN HƠN RỒI !!! TỔNG HỘI QGHC CÓ NÊN GIẢI TÁN NGAY KHÔNG ???? !!!!???? TRƯỚC KHI LIÊN CAN ĐẾN MỘT "THẾ GIỚI NẠN" MỚI ????....
Thu cua anh NVT-ĐS.2, Vancouver
Friday, 13 November, 2009 4:17 AM
Câu chuyện bắt nguồn từ sự thù ghét giữa hai người bạn thân từ trước nay trở nên thù địch: Hai Triều và Phan Siêu.
Hải Triều nghĩ rằng anh Nguyễn văn Thông thân tình với Phan Siêu ( chủ tịch hội người Việt Vancouver lưu nhiệm) nên ra tay chặt đứt vây cánh Phan Siêu. Tưởng cũng nên nói thêm là Hải Triều Phan Siêu cùng định cư một lượt với tôi ở Toronto, lúc đó hai người thân tình lắm và cùng cộng tác chặt chẻ với Bùi Bảo Sơn nhóm Lửa Việt. Thân tình tới độ sau hai năm thì cả hai cùng rủ nhau move qua Vancouver cho tới bây giờ trở thành thù địch nhau.
Hải Triều có một thời là chủ tịch tổng hội cựu sinh viên sĩ quan Thủ Đức nổi đình đám ồn ào lắm. Ngày xưa anh ta là ký giả của tờ báo nhiều sóng gió" Sóng Thần" của bà Trùng Dương. Hải Triều thuộc loại đao to búa lớn, tôi còn nhớ ngày xưa ở Toronto, còn chân ướt chân ráo mà anh ta nói với tôi là sẽ kiện bộ di trú Canada vì tội không cho gia đình anh ta có con nhỏ định cư vùng nắng ấm Vancouver theo yêu cầu nên con anh ta thường bị cảm vào mùa Đông. Ghê chưa?
Mà cái người "cắt đốt cột" video clip cũng tài tình thiệt thiếu diều như đưa dao vào cổ anh Thông vậy.
Ngoài ra tôi được biết hôm thứ bảy vừa rồi tại Washington DC bà Jackie Bông có tổ chức lễ ra mắt di cảo GS Nguyễn văn Bông (lần thứ ba) mà diễn giả chính là tên Tạ văn Tài (gan thiệt).
Trước đó có người nêu thắc mắc về sự có mặt của Tạ văn Tài một người đang bị cả thế giới nguyền rủa vì làm nhân chứng tại toà án di trú Cali yêu cầu Mỹ dẫn độ anh Nguyễn tấn Vinh về VN VÌ VN BÂY GỜI DÂN CHỦ NHÂN QUYỀN LẮM bảo đảm không có gì torture đâu.
Thì bà Bông trả lời rằng ai nói gì nói nhưng bà thấy sự hiện diện của Tạ văn Tài trong buổi ra mắt di cảo có lợi cho gia đình bà là bà cứ mời Tài làm diễn giả.
Thiệt là tội nghiệp chi anh linh GS Bông.
Sau buỗi lễ bà mời một số người thân tình đi ăn nhà hàng tại đó tên Tài đã phát ngôn xanh rờn
" Hôm rồi về VN tôi có đến nhà ăn cơm với anh chị Võ Nguyên Giáp , anh chị ấy rất tốt và đạo đức"
Một tên đồ tể sát cánh với thằng Hồ Chí Minh giết cả mấy triệu dân VN rồi dìm cả 80 triệu dân 2 miền Nam Bắc xuống tận đáy vực đói khát bần cùng đau đớn nhục nhằn mà tên Tạ văn Tài không tiếc lời ca ngợi.
Thôi hổng nói chuyện về thằng phản trắc nầy bằng không bi heart attack chết oan uổn.
GS Bông có linh thiêng ngó xuống mà coi./-
Thu cua anh NVT-ĐS.2, Vancouver
Friday, 13 November, 2009 4:17 AM
Câu chuyện bắt nguồn từ sự thù ghét giữa hai người bạn thân từ trước nay trở nên thù địch: Hai Triều và Phan Siêu.
Hải Triều nghĩ rằng anh Nguyễn văn Thông thân tình với Phan Siêu ( chủ tịch hội người Việt Vancouver lưu nhiệm) nên ra tay chặt đứt vây cánh Phan Siêu. Tưởng cũng nên nói thêm là Hải Triều Phan Siêu cùng định cư một lượt với tôi ở Toronto, lúc đó hai người thân tình lắm và cùng cộng tác chặt chẻ với Bùi Bảo Sơn nhóm Lửa Việt. Thân tình tới độ sau hai năm thì cả hai cùng rủ nhau move qua Vancouver cho tới bây giờ trở thành thù địch nhau.
Hải Triều có một thời là chủ tịch tổng hội cựu sinh viên sĩ quan Thủ Đức nổi đình đám ồn ào lắm. Ngày xưa anh ta là ký giả của tờ báo nhiều sóng gió" Sóng Thần" của bà Trùng Dương. Hải Triều thuộc loại đao to búa lớn, tôi còn nhớ ngày xưa ở Toronto, còn chân ướt chân ráo mà anh ta nói với tôi là sẽ kiện bộ di trú Canada vì tội không cho gia đình anh ta có con nhỏ định cư vùng nắng ấm Vancouver theo yêu cầu nên con anh ta thường bị cảm vào mùa Đông. Ghê chưa?
Mà cái người "cắt đốt cột" video clip cũng tài tình thiệt thiếu diều như đưa dao vào cổ anh Thông vậy.
Ngoài ra tôi được biết hôm thứ bảy vừa rồi tại Washington DC bà Jackie Bông có tổ chức lễ ra mắt di cảo GS Nguyễn văn Bông (lần thứ ba) mà diễn giả chính là tên Tạ văn Tài (gan thiệt).
Trước đó có người nêu thắc mắc về sự có mặt của Tạ văn Tài một người đang bị cả thế giới nguyền rủa vì làm nhân chứng tại toà án di trú Cali yêu cầu Mỹ dẫn độ anh Nguyễn tấn Vinh về VN VÌ VN BÂY GỜI DÂN CHỦ NHÂN QUYỀN LẮM bảo đảm không có gì torture đâu.
Thì bà Bông trả lời rằng ai nói gì nói nhưng bà thấy sự hiện diện của Tạ văn Tài trong buổi ra mắt di cảo có lợi cho gia đình bà là bà cứ mời Tài làm diễn giả.
Thiệt là tội nghiệp chi anh linh GS Bông.
Sau buỗi lễ bà mời một số người thân tình đi ăn nhà hàng tại đó tên Tài đã phát ngôn xanh rờn
" Hôm rồi về VN tôi có đến nhà ăn cơm với anh chị Võ Nguyên Giáp , anh chị ấy rất tốt và đạo đức"
Một tên đồ tể sát cánh với thằng Hồ Chí Minh giết cả mấy triệu dân VN rồi dìm cả 80 triệu dân 2 miền Nam Bắc xuống tận đáy vực đói khát bần cùng đau đớn nhục nhằn mà tên Tạ văn Tài không tiếc lời ca ngợi.
Thôi hổng nói chuyện về thằng phản trắc nầy bằng không bi heart attack chết oan uổn.
GS Bông có linh thiêng ngó xuống mà coi./-
Subscribe to:
Posts (Atom)