Nhóm 1% QGHC - Thông tin nội bộ QGHC Tỵ Nạn Hải Ngoại. Thiết lập từ 2008- Email Liên Lạc: cnguyqghc@gmail.com

Saturday, July 3, 2010

CÓ PHẢI BÀI CỦA CÔ JACKIE BÔNG KHÔNG ???

- Chữ XÃ HỘI DÂN SỰ là chữ của VIỆT CỘNG SÁNG CHẾ và đã được VIỆT TÂN đem ra Hải Ngoại tích cực phổ biến !!!!????


*Phát Triển* *Xã Hội Dân Sự tại Việt Nam*
*Jackie Bông - Tháng 5, 2010*
*Vai Trò Xây Dựng Xã Hội Từ Nhân Dân*


Ông Bà chúng ta có câu “Phép vua thua lệ làng.” Lời nói đó cho thấy rỏ sự thành hình và bành trướng của xã hội dân sự (XHDS) có từ muôn thuở tại Việt Nam cũng như ở các nước trên thế giới. Khi người dân thấy có một nhu cầu cần thiết gì thì chính họ tự tìm phương cách đễ giãi quyết vấn đề và đưa ra cứu cánh đem đến kết quả thực tiễn.
Những sáng kiến và công tác của người dân đem lại nhuận lợi cho cá nhân họ, gia đình họ, và cho tập thễ trong xã hội mà họ đang chung sống đễ tất cã được chung hưỡng. Họ hội hợp lại, bàn luận, góp sức lực đễ hợp tác, chia sẽ ý kiến, và thiết kế chương trình theo khuôn khổ pháp định công khai, minh bạch, rồi thực hiện những công tác cần thiết cho đến khi nào họ đạt đến kết quả mong muốn theo mục tiêu và sứ mạng đã vạch ra.


Họ tổ chức một nhóm người cùng có một chí hướng đễ tìm phương tiện thực hiện những chương trình tự họ trù tính với tinh thần tự nguyện, bất vụ lợi của một số người hòan toàn độc lập, tách biệt ra không dính líu gì với các công chức của một chánh quyền nào.
Nếu họ thành lập một nhóm có khã năng tổ chức quy cữu thì có thễ gọi họ là một hội phi chánh phủ (non-governmental organization - NGO), một hội tư nhân, một hội thiện nguyện hay hội tương tế. Họ có thễ bành trướng hoạt động của họ trên nhiều phương diện và thành lập những hội đồng hương, hội giáo dục, hội hướng đạo, hay hội đoàn tôn giáo theo khuôn khổ pháp trị. Họ điều hành qua tinh thần tự nguyện, phần đông được đào tạo và khích lệ bởi các tổ chức tôn giáo hay văn hóa xã hội.
Ông Trần Hữu Quang, trong bài đăng trên Tạp Chí *Khoa học xã hội *năm 2009,* *tóm tắt bốn khái niệm XHDS được thay đổi quan điễm về các mối quan hệ giữa các lãnh vực chánh trị, kinh tế và xã hội. Ông nói là nhà chánh trị người Anh Thomas Hobbes là người đầu tiên sữ dụng thuật ngữ XHDS (societas civilis) đối lập với “tình trạng tự nhiên” trong quyễn *De Cive *xuất bản năm 1649. [1]
Vậy thì vào thế kỷ XVI-XVIII, Hobbes, cùng với John Locke và Jean Jacques Rousseau đồng hóa XHDS với nhà nước/quốc gia. Qua thế kỹ XVIII-XIX, cũng theo Ông Quang, thì Bernard Mandeville, Adam Ferguson và Adam Smith cho quan niệm XHDS là xã hội thị trường. Sau đó XHDS được coi như là xã hội tư sản với Georg Hegel, Karl Marx, Friedrich Engels và Antonio Gramsci vào thế kỹ XIX-XX. Qua đến thế kỹ XXI, những chuyển hóa về nội dung ý niệm XHDS phản ảnh những hòan cảnh cụ thể còn tồn tại được đến ngày nay như thế nào? Trong năm 2006, Louis Juste cho là “nó biểu hiện tình hình đấu tranh xã hội diễn ra trong những thời cơ nhứt định.” [2]


Tóm lại, XHDS cấu thành từ các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện tạo cơ sở đễ tự vận hành, khác vơi các cơ cấu quyền lực của nhà nước và các thể chế thương mại của thị trường. Có ba mẩu XHDS: 1) cứu tế cho nạn nhân chiến tranh hay tai hoạ gây ra, 2) phát triễn thễ chế xã hội, kinh tế, văn hóa và giáo dục, và 3) bành trướng các sinh hoạt xã hội (social action) tăng quyền lợi cá nhân và phát triễn ý thức hệ trong cộng đồng. Như thế mọi hoạt động bất vụ lợi cũng cần có phương tiện cụ thể, tiền bạc và cơ sở đễ sinh hoạt.
Trung tâm XHDS của Trường đại học kinh tế London định nghĩa XHDS như sau:
* *
*“XHDS đề cập tới các hoạt động tập thể tự nguyện xung quanh các giá trị, mục tiêu, ý thức chung. Về lý thuyết, các hình thái tổ chức XHDS khác biệt hẳn với các hình thái tổ chức nhà nước, gia đình và thị trường. Nhưng trong thực tế thì ranh giới giữa nhà nước, xã hội, gia đình và thị trường là khá lẫn lộn, mập mờ và không rõ ràng. XHDS thường bao gồm một sự đa dạng về phạm vi hoạt động, các thành viên tham gia và các hình thái tổ chức khác nhau về mức độ nghi lễ, tự do và quyền lực. XHDS thường được hình thành dưới dạng các hội từ thiện, các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các phong trào xã hội, các hiệp hội kinh doanh, các liên minh, và các đoàn luật sư.” *[3]
* *
*Xã Hội Dân Sự Toàn Cầu*

* *
Sự phát triễn của thễ chế XHDS trong những quốc gia Âu Châu từ cuối thập niên 1990 đã đem lại sự hình thành của Phong Trào Tân Xã Hội (New Social Movement.) Nó trở thành một khối quản trị thứ ba xây dựng thế lực toàn cầu không ranh giới, có tính cách chánh trị, sinh hoạt tranh đấu về ý thức hệ như chống bạo hành gia đình và công lực, chống đàn áp tôn giáo, chống áp đảo truyền thông báo chí, chống nạn buôn người hay bảo vệ môi trường. Những phong trào đó tạo thành Xã Hội Chánh Trị làm môi giới giữa nhà nước và dân chúng. [4]
Khái niệm XHDS mới chỉ được phổ biến rộng rãi trong vòng mấy chục năm gần đây vào thế kỷ XX, nhưng vào đầu thế kỹ XXI sinh hoạt đa dạng của XHDS được phổ biến rộng lớn mãi ra trên khắp thế giới. Trường hợp cụ thể của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế đặc trụ sở chính tại Geneve, Thụy Sĩ, được thiết lập trên 150 năm, phối hợp với các chi nhánh của từng quốc gia sở tại. Rotary Club có chi nhánh làm thiện nguyện khắp Năm Châu cũng ăn mừng 150 tuổi.


Những tổ chức bênh vực nhân quyền như Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International), Theo Dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch), Bác Sĩ Không Biên Giới (Médecins Sans Frontière), Ký Giả Không Biên Giới (Reporteurs Sans Frontieres), Bảo Vệ Môi Sinh (Green Peace) và Minh Bạch Quốc Tế (Transparency International) cũng như các tổ chức tôn giáo, y tế xã hội, văn hóa giáo dục, hoạt động trên toàn cầu, thì được quần chúng ưa chuộng hơn cơ quan nhà nước hay cơ sở thương mại. [5]
Như Hội Hướng Đạo có trụ sở chính tại London, Anh quốc, là một phong trào hướng dẫn sinh hoạt lành mạnh cho giới thanh thiếu niên khắp thế giới. Như tại Ấn Đô có từ 1 đên 2 triệu tổ chức lớn và nhỏ hoạt động từ thiện, còn ở bên Nga Sô thì cũng có đến 277,000 XHDS, phần đông do nhà cầm quyền Nga Sô thống trị.
Ngòai ra, vai trò trong giới đại học (academia) và các cơ quan chuyên nghiệp về kỹ thuật, khoa học, giáo dục, y tế, đóng góp sáng kiến thực tiễn ảnh hưỡng trong giới trí thức cũng như ảnh hưỡng quần chúng sâu rộng. Tuy hhiên, không cần phải là một tổ chức quy mô với tài chánh dồi dào mới có thễ hoạt động được. Những tổ chức nhỏ với ngân sách eo hẹp cũng hoạt động khá hiệu quã với tầm vóc quan trọng.
Riêng tại Hoa Kỳ, thống kê cho thấy Foundation Center gồm 11 cơ quan tài trợ cho 1 triệu tổ chức vô vị lợi và trên 3 triệu nhóm nhỏ hoạt động tự nguyện đễ phục vụ công ích. Các tổ chức nầy có hơn 60% phát xuất từ các tôn giáo phãn ãnh tinh thần phục vụ hy sinh rất cao về số nhân viên thiện nguyện làm việc cho các tổ chức nầy. Tuy vậy, có những nhân viên các tổ chức XHDS được trã lương cao với quyền lợi đãi ngộ được bảo đảm không thua các công chức nhà nước hay công ti xí nghiệp.
Như Hội AARP, với 6 triệu thành viên người hưu trí (American Association of Retired Persons) có ngân sách $640 triệu và thuê cã ngàn nhân viên làm việc trong những văn phòng toàn quốc ở Hoa Kỳ. Họ cũng trã tiền cho nhiều nhân viên đi vận động (lobby) trên quốc hội đễ bênh vực quyền lợi cho người từ 50 tuổi trở lên. [6]


Thống kê cũng cho biết người Mỹ đã chi ra 250 tỹ mỹ kim cho lãnh vực từ thiện và có tất cã 1.8 triệu tổ chức đã được chấp nhận được miễn phí trong năm 2007. Mổi năm có từ 75,000 đến 100,000 tổ chức XHDS nợp đơn đăng ký tại Hoa Kỳ.[7]
Nhu cầu đa diện của môt quốc gia chứng nhận là chánh quyền không thễ nào tự giãi quyết nổi nhiều vấn đề về chánh trị, kinh tế hay xã hội. Vì vậy, tổ chức XHDS bổ sung chớ không nhầm thay thế guồng mái nhà nước. Họ chỉ lấy công của dân làm căn bản giúp cho chánh quyền. Theo LS Đòan Thanh Liêm, những tổ chức XHDS đóng hai vai trò: vừa là đối tác (counterpart), vừa là đối trọng (counterbalance). [8]
Cụ thễ như các hội Hồng Thập Tự luôn hợp tác với nhà nước đễ lo sóc cho các nạn nhân thiên tai, bão lụt. Còn các hội phụ huynh học sinh, chẵng hạng thì hổ trợ nhà trường giúp mỡ mang trí tuệ và sức khõe cho các con em. Vì thế mà các cơ quan thiện nguyện còn được chánh quyền tài trợ hay cấp nhiều phương tiện khác cho họ thực hiện nhiều chương trình công ích.
Còn các hội tôn giáo (faith-based initiatives) hay nhân quyền thì đóng vai trò đối tượng đễ bênh vực cho những nạn nhân chống bất công, tham nhũng, lạm dụng mà nhân viên chánh quyền gây ra. Giới truyền thông báo chí, các đại học và những người có lý tưỡng như giới trẽ và sinh viên dám cang đãm đứng lên đễ thức tĩnh, cãnh giác, phê phán sai trái các nhân viên chánh quyền hay cơ quan doanh nghiệp tư nhân gây ra.


Nhờ có “kiễm soát đễ giữ sự quân bình” (checks & balance) của người dân cho nên bớt được một phần nào sự nhũng lạm và thiệt thoài của công dân trong xã hội. Đó là một nhu cầu chính đáng của người dân dự định, do người dân thực hiện, và cho người dân hưỡng thụ.
Những sự kiện giãm những khống chế, lạm quyền, thối nát đem lại những thay đổi trong xã hội như tôn trọng quyền tối thiểu của công dân sống trong một quốc gia theo thễ chế pháp trị. Từ đó những định hướng tự do cỡi mỡ, bảo trọng quyền lợi cho công dân đạt đến nhân quyền và dân chủ từ lần từ hồi được phát họa. Những phong trào chống nô lệ, bênh vực quyền lợi phu nữ và người da màu cho họ được quyền bỏ phiếu được đề cao và gia tăng.
Sau thế chiến thứ nhất , Liên Hiệp Quốc được thành lập đễ bàn luận về Sự Giãm Quân Bị trên thế giới (World Disarmement). Năm 1950, LHQ mời 1,000 NGO đến tham dự và biểu quyết chấp nhận làm việc chung. Họ coi các hiệp hôi tư nhân như là một khối tổ chức quốc tế “International NGO” phu giúp họ thực hiện những chương trình trong các quốc gia trên thế giới. Vì thế mà các NGO càng nhận được nhiều nguồn tài trợ từ cá nhân, từ quỹ tài trợ các foundations, từ tổ chức tư nhân và thương mại, từ chánh phủ và từ các tổ chức quốc tế. [9]


Năm 1970, các quốc gia giàu cam kết trích ra 0.7% GNI (lợi tức quốc gia - growth national income) tặng cho NGO thực hiện chương trình của họ cho các quốc gia đang mỡ mang. Viện Đại học John Hopskins nghiên cứu trong các năm 2000-2002 đưa ra tổng số $1,300 trĩ mỹ kim (trillion) do 35 quốc gia chi phí cho 40,000 ngàn nhân viên quốc tế làm việc trong khu vực XHDS nầy.
Như thế thì XHDS có thễ xếp vào hàng thứ 7 trong các nền kinh tế lớn nhất của thế giới ngày nay. Có thễ coi XHDS là một khối thế lực thứ ba (Third Force) trên thế giới và trong guồng mái của nhiều quốc gia từ Đông Tây đến Âu Á. Quan hệ quốc tế và quốc gia được khai thông trở thành quan hệ “mỡ” (open society) trong nhiều lãnh vực khai thông hai chiều trên nhiều lãnh vực không biễn cưỡng tuy các nếp sống cổ truyền vẩn được duy trì. Vì thế, nhiề u dân t ộc đa dạng, khác biệt về ngôn ngữ và truyền thống cũng sống chung với nhau và chia sẽ những giá trị và nếp sống chung trong một xã h ội
cỡi mỡ không biên giới như ngày hôm nay. [10]
Trong năm 2007, World Bank trích ra một tỹ mỹ kim tài trợ cho những chương trình cộng đồng. Carnegie Endowment for International Peace cho $20 tỹ trong năm 2007, còn Bill và Melinda Gates tặng $38 triệu cộng với $30 triệu của Ông Warren Buffet đễ chích ngừa cho 200 triệu trẽ em cũng như tài trợ cho nhiều chương trình giáo dục và xã hội khác. Vậy thế kỹ XXI là thế kỹ của bất vụ lợi (the Century of Non-Profit).
Các nguyên nhân nào đem đến sự đột phá của xã hội mới mẽ nầy (The New Social Movement)? Trưóc hết là vấn đề tài nguyên. Các chánh phũ ở Tây Âu kễ cã Mỹ không ngân sách đễ trang trãi mọi dịch vụ cho người dân, đặc biệt trong những năm 1970, giá dầu hỏa từ Trung Đông tăng quá cao làm lợi tức thu nhập quốc gia giảm nhiều. Do vậy, các cơ quan tư nhân gi úp đảm trách vai trò mà nhà nước không thễ phụ trách trên phương diện giáo dục, văn hóa và xã hội.
Hai nữa, quần chúng ở các nước Âu Mỹ kết hợp thành phong trào chống chiến tranh hạt nhân, chống phá hoại môi sinh, chống đàn áp nhân quyền. Nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và lãnh vực truyền thông nên sự liên đới quốc tế được kết hợp với tính cách toàn cầu và được phổ biến mau lẹ và liên tục.
Ba nữa là trong thời kỳ Cộng sản tại Liên Sô và các nước Đông Âu bị suy thoái, và sau bức tường Bá Linh xụp đổ năm 1989, công cuộc phục hồi XHDS được tiến hành mau lẹ dành cho gười dân cái quyền tự mình làm chủ vận mệnh. Quá trình chuyễn tiếp dân chủ (Democratic transition) nầy đang diễn ra tại tất cã các quốc gia cựu Cộng sản trừ Cuba, Bắc Đại Hàng, Trung Quốc và Việt nam. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rỏ sự thay đổi là một quá trình mà không thếnào đảo ngược lại được n ữa (irreversible process).
Chót nữa thì tổ chức XHDS còn thu hút nhiều tài năng trí tuệ xuất sắc, cho nên hoạt động của họ có năng xuất và hiệu quã rất cao. Do đầu óc sáng tạo, l òng nhiệt tâm, sự hy sinh cho lý tưỡng, phương thức ôn hòa bất bạo động, và hành động thiết thực nên những nhân viên phục vụ cho dân chúng gặt hái thành qủa tốt đẹp.
Hơn nữa, năn độ đa năng và đa nguyên của XHDS ở Hoa Kỳ và các nước mỡ mang còn ảnh hướng chính sách đối nội và đối ngoại, phát huy đời sống toàn diện của người dân từ kinh tế, xã hội, văn hóa và tôn giáo. Nó cũng bảo trọng nền dân chủ hữu hiệu từ hạ tần cơ sỡ như làng, xã, quận đến tĩnh và thành thị lên đến thượng tần cơ sỡ của chánh quyền như các nhà lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là hiện tượng thay đổi từ dưới lên trên, từ lòng dân lên đến chánh quyền, khác với những quốc gia có truyền thống chuyên chế, độc tài kiễm soát quyền hành từ trên xuống dưới.
Sự ảnh hưỡng của XHDS rất quan trọng đến chánh quyền. Nhân dịp viếng thăm Trung Quốc cuối tháng Năm năm 2010, Ngoại Trưỡng Hoa Kỳ Hillary Clinton gặp các phụ nữ XHDS (Chinese Women Civil Society) tại Beijing. Họ chia sẽ những vấn đề khó xữ như tham những, bạo hành gia đình, đàn áp, hãm hiếp, quyền phụ nữ và nhân quyền. Kết luận tất cả đồng ý là cần có sư đồng tâm và ưng thuận của các đâng nam nhi và chánh quyền mới giải quyết và thay đổi được những tình trạng nêu trên. [11]
*Xã Hội Dân Sự tại Việt **Nam***
* *
Sau khi thống nhứt đất nước thành một quốc gia không còn chia đôi trong năm1975, Việt Nam đã trãi qua nhiều thời kỳ thữ thách, từ trừng phạt bỏ tù cã trăm ngàn người miền nam cùng máu mủ, còn trừng phạt gây chiến với Cam Bốt, rồi đến trừng phạt đánh trận với đàn anh Trung Cộng. Việt Nam trở thành một nước nghèo đứng hạng thứ tư trên thế giới với lợi tức đầu người $200 một năm cho đến thập niên 1990.
Nhờ noi gương đổi mới của hai đàn anh Nga Sô và Trung Cộng nên sau đó Việt Nam đã bắt tay liên hệ với kẽ thù là đế quốc Mỹ năm 1995 và tiếp nhận nền kinh tế thị trường cởi mở theo tư bản. Từ năm 2000 trở lên, nền kinh tế Việt Nam đã được chấp nhận trên sân chơi quốc tế và phát triễn trên phương diện kinh tế lẫn xã hội với những đầu tư đáng kễ từ các nước phương tây. Những tiếp súc với bên ngoài về tài chánh, luật lệ, và ngành chuyên môn kỹ thuật với những tư tưỡng dân chủ đã làm thay đối tầm nhìn và triễn vọng của chẵng những của cấp lãnh đạo nhà cầm quyền Cộng sản, mà còn cho đa số người dân trong nước.
Từ đó, mức độ phát triễn kinh tế gia tăng và vượt lên đến 6.2 % trong năm 2008, hơn các quốc gia lân cận tại Đông Nam Á, với lợi tức đầu người $1,000 mổt năm. Tuy vậy, những sự kèm kẹp về tư tưỡng và chương trình hoạt động của người dân vẫn bị Bộ Chánh Trị Hà Nôi kiễm soát chặt chẽ. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam cũng có nhiều tổ chức tập đoàn họ thành lập ra đễ “dân cao danh nghĩa dân chủ của dân, do dân và vì dân.”
Hội đòan lớn nhưt là Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam hay Mặt Trận Dân
Tộc thống nhứt VN (Mặt Trận) đưa ra chánh sách cũng như liên minh và liên kết với các Câu lạc bộ được coi như là tổ chức XHDS. Mặt trận cũng phê chu ẫn các ứng cữ viên vào danh sách ứng cữ và đãm nhiệm luôn việc giám sát tất cã các cuộc bầu cữ. [12]
Các tổ chức ngoại vi nầy đươc thành lập bỡi Bộ chánh trị nhà nước gòm đãng
viên Đãng cộng sãn VN. 44 thành viên XHDS của Mặt Trận là Đãng cộng sãn VN, Tổng liên đoàn lao động, Hội nông dân, Đòan thanh niên cộng sản HCM, Hộiliên hi ệp phụ nữ VN, Hội cựu chiến binh, Liên hội khoa học kỹ thuật, Hội chữ thập đỏ, Phòng thương
mại và công nghiệp, Hội Phật Giáo, Ủy ban đoàn kết công giáo, Tổng hội thánh tin lành, Hội nhà báo, Hội liên lạc người VN ở nước ngoài, Hội luật gia cho đến Hội làm vườn.


Thành viên đứng đầu Mặt Trận là Đãng cộng sản có 3 triệu đãng viên, chiếm 3% dân số, chỉ thị cho các Câu lạc bộ hay tổ chức XHDS tuân theo đễ quãn trị họ. Đặc biệt trong Mặt Trận có Hội liên hiệp phụ nữ (VN Women’s Union), một tổ chức chánh trị gòm 1.5 triệu hội viên có nhiệm vụ phát triễn kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và xây dựng gia đình bảo vệ xã hội chủ nghĩa VN.
Trang nhà của Hôi phụ nữ xác nhận là 70% hội viên được tuyên truyền, phổbiên về chủ trương của Đãng và 100% Chủ Tịch và Phó CT Hội đạt tiêu chuẫn chức danh cán bô, công chức theo quy định. Vậy thì các thành viên phải vào đãng CS mới trở thành công chức và được làm việc an toàn. Họ phải tuân lệnh do đãng chĩ thị. Hội cũng đưa ra con số là 70% phụ nữ nghèo đươc Hội giúp xoá đói giãm nghèo. Vậy tại sao cơ quan quốc tế UNDP (Development Programme) đi ều tra và báo cáo là “nhóm 20% những người giàu nhất ở Việt nam hiện đang hưỡng tới 40% lợi ít từ các chính sách an sinh xã hội của nhà nước; trong khi nhóm 20% những người nghèo nhất chỉ nhận được 7% lợi ích từ nguồn nầy.” [13]


Như thế ta thấy rỏ là Đãng Cộng sản đứng ra tổ chức, điều động, bao trùm và lũng đoạn tât cã các sinh hoạt của lãnh vực XHDS chứ không có gi ới hạn trong phạm vi chánh quyền hay lãnh vực kinh tế mà thôi. Do đó XHDS bị “chánh trị hóa”, bị cai trị chuyên chế, bị công lực và công quyền đàn áp và bị kiềm kẹp. Quyền lực nằm trọn trong tay đãng tức là “đãng sự” chớ không phải trong tay của nhân dân tức “dân sự”. Thật ra thì các XHDS như thế được gọi là GONGO (Government organized NGO) chớ không phải là NGO (non-government organization).
Theo Điều 9 Hiến pháp (1992) quy định thì có đoạn như sau: “Nhà nước chăm lo và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cữ và cán bộ, viên chức nhà nước.” Những từ ngữ dân chủ mỹ miều nầy có được nhà nước áp dụng trung thực hay không?


Ngoài ra, ngày 26-3-2004, Trung ương đãng đã ban hành Nghi quyết 36 về “kế hoạch toàn diện nhằm vận động ba triệu người Việt ở nước ngoài “thành một bộ phận không thễ tách rời của cộng đồng dân tộc.” Còn ở bên nhà thì nhà nước thẳng tay đàn áp những cá nhân hay tổ chức tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Vậy thì lối thoát của sự bế tắc hiện nay như thế nào? [14]
GS Carl Thayer, nhà nghiên cứu về Việt nam thuộc Đại học New South Wales ở Sydney, Úc, trã lời phóng vấn của đài BBC tháng 8 năm 2008 như sau: “Ở Việt nam, những nhóm đang đòi hỏi có XHDS tức đòi chính quyền phải thực thi chính luật pháp của mình, qua đó công nhận có quyền lập hội, tụ tập, biểu tình, tự do tôn giáo. Những quyền nầy không được thực thi vì nhà chức trách luôn tìm lý do đễ ngăn cản thí dụ lý do gây rối an ninh trật tự đễ ngăn không cho biểu tình.”


Ông nói tiếp:”Những nhóm dân sự này gia tăng về con số và bắt đầu liên kết thành
những mạng lưới. Như vậy mạng lưới đang ngày càng phát triễn và tôi nghĩ rồi sẽ đến lúc các nhóm riêng lẽ không những thành lập phong trào mà còn gây sức ép nhiều lần đễ nhà nước
thực thi luật pháp theo các tiêu chuẩn quốc tế mà Việt nam đã cam k ết.” Ông Thayer kết
luận:”Có m ột điễm chung là những tiếng nói XHDS nầy được lắng nghe và tìm cách đưa vào trong guồng máy. Kịch bản khả dĩ nhất theo tôi là cuối cùng họ sẽ được phép nắm giữ những ghế trong quốc hội.”
Theo TS Hồ Bá Thâm thì “hiện nay có 320 hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc ở Việt nam và hơn 2,150 hội hoạt động trong phạm vi vi tính, thành phố trực thuộc Trung ương cùng có hàng ngàn hội ở các cơ sở.” Ông viết tiếp: “Các hội cũng rất đa dạng: có hội do tổ chức thành lập, có hội do cá nhân, doanh nghiệp, có hội có cơ cấu chặt chẽ nhưng có hội lại lỏng lẽo. Trung bình mỗi người là thành viên của 2.33 tổ chức, cao hơn nhiều nếu so với những nước trong khu vực châu Á, như Trung Quốc (0.39) và Singapore(0.86). Theo khảo sát nầy, tỹ lệ những người thuộc ít nhất một tổ chức là 73.5%, một tỹ lệ tương đối cao.” [15]


Ngoài các hội hoạt động trong nước thì có những NGO đáng kễ của người Việt đãm trách từ nước ngoài về Việt nam đầu tư, kinh doanh, họp tác khoa học, hoạt động nghề nghiệp, định cư lâu dài và cứu trợ.

Vai trò của những tổ chức cộng đồng hãi ngoại là một lực lượng có chất xám, có tài chánh dồi dào, có kỹ thuật cao độ, có kiến thức chuyên nghiệp, và có cã tấm lòng giúp cãi thiện đời sống gia đình, bà con và bạn bè tại quê nhà.

No comments: