Australia và New Zealand thường được gọi là Down Under (Miệt Dưới)
vì ở Nam Bán Cầu và “below” rất nhiều nước khác. Down Under được dùng
từ cuối Thế-kỷ 19 và trở nên rất thông-dụng. Bản nhạc nổi tiếng “Down
Under” của ban nhạc Men At Work đã quảng-bá thêm cho tên gọi thân-thương
này với những lời ca yêu-mến:
“Do you come from a land down under
Where women glow and men plunder…
I come from a land down under
Where beer does flow and men chunder”
Năm 2004, khi hoa-hậu Úc Jennifer
Hawkins thắng giải Hoa-hậu Hoàn-vũ (Miss Universe), cô được giới-thiệu
là Hoa-hậu của Miền Down Under.
Hội-ngộ Liên Khóa Úc Châu 2018
Tôi không gọi là HNLK Kỳ 4 như Ban
Tổ-chức và nhiều người gọi vì theo tôi, đây là Kỳ 5. Năm 1999, Tổng Hội
CSV/QGHC đã tổ-chức Họp Mặt lần đầu tiên ở Virginia. Năm 2014, Hội
CSV/QGHC Texas tổ-chức cuộc Họp Mặt Kỳ 2 nhưng lại gọi là Kỳ 1. Một
hội-viên Hội Miền Đông đã đính-chính nhưng Hội CSV/QGHC Texas vẫn giữ
tên là Kỳ 1 và giải-thích rằng Họp Mặt Năm 1999 là Đại Hội QGHC Thế
Giới, đêm Liên-hoan gọi là Đêm Hành Chánh Hội Ngộ chứ không phải
Hội-nghị Liên Khóa; bởi vậy HNLK 2014 ở Houston là HNLK Kỳ 1. Tôi không
hiểu sự khác biệt giữa “Đêm Hành Chánh Hội Ngộ” và “Hội Ngộ Liên Khóa”
ra sao? Có lẽ chỉ nên đặt tên Họp Mặt theo năm và nơi tổ-chức, không cần
“Kỳ” nữa. Nói vậy thôi chứ Hội CSV/QGHC nào tổ-chức họp mặt và đặt tên
ra sao tôi cũng đi để gặp bạn-bè.
Tôi và Nhà Tôi vẫn có ý-định đi thăm vùng Miệt Dưới
từ lâu nên khi Hội CSV/QGHC Úc tổ-chức HNLK 2018 tôi ghi tên ngay. HNLK
2018 được tổ-chức rất chu-đáo, thành-công tốt-đẹp. Trước ngày Đại-hội
có tour đi Canberra, hai buổi họp-mặt “Tiền Hội-ngộ” và “Lễ Nhớ Ơn Thầy
Cô.” Sau ngày Đại-hội lại có tour Sydney, tour Symbio Wildlife Park và
cruise Great Barrier Reef. Thật là qúa đầy đủ, ít cuộc họp mặt thân-hữu
nào có nhiều “options” như vậy.

Trung Tâm Sinh Hoạt Văn Hóa Cộng Đồng
Tour Canberra do anh Đặng Văn Hiền hướng-dẫn. Anh
Hiền vốn là một công-chức lâu năm ở đây nên hiểu biết rành-rẽ tổ-chức
của chính-quyền Úc. Anh Hiền và người hướng-dẫn ở văn-phòng Quốc-hội đã
đưa chúng tôi đi thăm các văn-phòng Thượng và Hạ Nghị-viện Úc.
Đi thăm Australian War Memorial thấy
hình ảnh cuộc chiến Việt Nam lại buồn nhớ đến hơn 3 triệu người Việt Nam
chết, gần 60,000 chiến-sĩ Hoa Kỳ và Đồng Minh đã bỏ mình để ngăn làn
sóng Đỏ ở Việt Nam, bảo-vệ tự-do cho Thế-giới. Xin cám-ơn Chính-phủ,
Quân-đội, và nhân-dân Úc đã trực-tiếp tham chiến tại Việt Nam, khởi sự
từ con số khiêm-nhường 30 Cố-vấn Quân-sự năm 1962 lên đến một lực-lượng
hùng-mạnh 7,672 chiến-sĩ. Trước chiến tranh Afghanistan, chiến-tranh
Việt Nam là cuộc chiến dài nhất trong lịch-sử Úc. Tuy chiến tranh
Afghanistan dài hơn chiến-tranh Việt Nam, lực-lượng Quân-đội Úc ở
Afghanistan lại ít hơn ở Việt Nam nhiều. Khoảng 60,000 chiến-sĩ Úc đã
tham chiến tại Việt Nam, 521 chiến-sĩ Úc đã bỏ mình, và hơn 3,000 người
bị thương. Chúng ta không thất trận ở Việt Nam, chúng ta đã thất trận ở
Paris và Washington!
Tour Sydney và Tour Symbio Wildlife Park
do hai anh David Ngô và Lê Văn Thái hướng-dẫn đã đưa chúng tôi đi thăm
hầu hết các thắng cảnh ở Sydney. Vào những đêm giao-thừa Dương lịch, tôi
hay theo-dõi Năm Mới tuần-tự đến với các nước. Sydney, vì ở Down Under,
nên là thành-phố lớn đầu tiên đón Năm Mới. Nhìn cảnh pháo bông rực-rỡ
trên Sydney Opera House và Sydney Harbour Bridge, vợ chồng tôi vẫn có
ý-định đến thăm nơi này vào một đêm giao-thừa. Nay tuy không phải là
giao-thừa nhưng chúng tôi cũng đã được đi trên Harbour Bridge, vào thăm
Opera House thì cũng mãn nguyện. Hàng năm có hơn 8 triệu người viếng
thăm Sydney Opera House, một thắng cảnh được liệt-kê là UNESCO World Heritage Site.
Tour Symbio Wildlife Park không hấp-dẫn cho lắm vì tôi không thấy con
kangaroo mẹ đìu con trước bụng như tôi đã thấy ở Mỹ; kangaroo ở sở thú
này nhỏ nhưng rất hiền và thân-thiện. Nhà Tôi rất thích con két trắng cứ
luôn luôn chào “Hello” với nàng.

Sri Venkateswara Temple – Helensburg

Sydney Opera House
Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô đựợc
tổ-chức rất long-trọng và cảm-động. Hội CSV/QGHC Úc vẫn tổ-chức lễ này
hàng năm nên có nhiều kinh-nghiệm, tổ-chức rất chu-đáo. Có Chủ Tế, Bồi
Tế mặc áo thụng, khăn đóng cổ-truyền với tiếng chiêng, tiếng trống
linh-thiêng. Có dâng hương, hoa, rượu, trà, bánh trái. Anh Trần Thiện
Tích đã nói lên tình thày trò đậm-đà và nỗi lòng biết ơn, thương-tiếc
của CSV/QGHC với các Thầy, các Cô đã qua đời. Anh Tích và Chủ Tế Bùi Đức
Hùng cũng nhắc đến một số đồng môn đã đi trước chúng ta, nhiều người đã
anh-dũng hy-sinh cho Tổ-quốc. Đặc-biệt năm nay khi các CSV/QGHC tổ-chức
Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô thì một vị Thầy khả-kính là Giáo-sư Nguyễn Khắc Nhân
vừa nằm xuống ngày hôm trước ở Sydney. Nơi Thầy đang nằm chỉ cách chỗ
các học-trò đang tổ-chức Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô một khoảng đường rất ngắn.
Nguyện xin Thầy an-nghỉ và cầu mong hương-linh Thầy sớm siêu-thoát về
Miền Cực Lạc. Riêng con, con không bao giờ quên ơn Thầy đã chấm Luận-văn
Tốt-nghiệp Khóa Đốc-sự 10 của con hạng nhất trong lớp.[1]
_____________
[1]
Tôi được giải nhất Luận-văn Tốt-nghiệp Khóa Đốc-sự 10 và Khóa Cao-học 2
(Ban Hành-chánh) nhưng ở cả hai khóa, tôi đều đồng điểm với một
sinh-viên khác. Cả hai lần Giáo-sư Bông đều phải họp Hội-đồng Giáo-sư để
chọn một sinh-viên nhất vì Học-viện muốn tặng một quyển Luận-văn chiếm
Giải Nhất cho vị Chủ-tọa Lễ Tốt-nghiệp. May mắn thay, tôi được Hội-đồng
Giáo-sư chọn cả hai lần. Cám-ơn Thầy Nguyễn Văn Bông, Thầy Nguyễn Khắc
Nhân, Thầy Nguyễn Văn Tương và các Thầy, Cô khác đã chọn con. Nhờ vậy
con đã có đủ lòng tự tin khi viết Luận-án Tiến-sĩ Tài-chính / Kế-toán ở
Pace University, Hoa-Kỳ. Lần này con đã chiếm giải Nhất mà không có
sinh-viên nào đồng điểm vì cả 5 vị Giáo-sư chấm Luận-án Tiến-sĩ của con
đều cho con A+
—————

Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô
Tôi sang Úc hơi
trễ nên đã không còn gặp được một vài người bạn thân-thương đã đi trước
chúng ta. Anh Lưu Văn Của học chung với tôi Khóa Cao-học 2. Anh Nguyễn
Khoa Huân, huynh-trưởng Khóa Đốc-sự 2, một người bạn vong niên của tôi.
Khi Anh làm Trưởng-ty Thuế-vụ Nha-trang / Khánh-hòa thì tôi làm
Trưởng-ty Thuế-vụ Lâm-đồng, chúng tôi có chung một “xếp” và vẫn đi họp
với nhau. Anh không nề-hà tuổi cao đã dấn thân ra làm Chủ-tịch Hội
CSV/QGHC South New Wales với ý-định cùng ACE tổ-chức HNLK 2018 cho thật
đẹp. HNLK chưa tới thì anh đã ra đi. Một đàn anh nữa là Anh Nguyễn Văn
Thực làm Chánh Sự Vụ Sở Hành-chánh khi tôi về học Cao-học. Về Sài-gòn
tôi phải thuê nhà hết gần $2,000 một tháng lại mất phụ-cấp Phó
Quận-trưởng nên ăn tiêu hơi thiếu thốn; tôi đi tìm việc làm thêm. Anh
Thực lúc ấy đang coi Trung-tâm Văn-hóa Bình-dân vào buổi tối; anh nhường
cho tôi khi biết tôi chưa tìm được việc làm. Hội Văn-hóa Bình-dân mở
các lớp học vào buổi tối dạy chữ, dạy nghề cho các em lớn tuổi nhưng
không có điều-kiện theo học các trường ban ngày. Hết khóa học, tôi trả
lại anh Thực việc làm này và đi dạy học ở Trường Trung-học La-san Đức
Minh. Tôi không bao giờ quên nghĩa-cử này của anh Thực đã dành cho tôi.
Nói chuyện với chị Thực tôi mới biết anh Cung Đình Thanh, Luật-sư
Chủ-tịch Hội Văn-hóa Bình-dân cũng mới mất ở Úc.


Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô
Một người bạn nữa tôi không được gặp là
anh Đặng Gia Thoại; Thoại học chung với tôi Khóa Đốc-sự 10 lại ở cùng
phòng trong Ký Túc Xá. Tôi quen biết hầu như hết mọi người trong
gia-đình Thoại. Tôi còn học chung với chị Thoại ở Đại-học Văn-khoa
Sài-gòn. Xem danh-sách, tôi có thấy chị Thoại ghi tên tham-dự Lễ Tưởng
Niệm nhưng tôi đi quanh phòng họp mấy lần cũng không thấy chị. Sợ rằng
không gặp Chị từ lâu nên tôi không nhận được Chị, tôi nhờ Dũng và Khôi
là dân Khóa 10 ở Úc đi tìm mới hay Chị không đi dự được. Trong buổi Lễ
Tưởng Niệm này, tôi đau buồn nhớ đến mấy người bạn thân-thương của tôi ở
Úc mà tôi không còn gặp được nữa. Họ đã bỏ chúng ta sang bên ấy
thành-lập một Chi-hội CSV/QGHC mới. Chắc chắn là Chi-hội của họ sẽ càng
ngày càng đông hội-viên, Chi-hội của chúng ta ở lại sẽ càng ngày càng ít
đi. Không biết ai sẽ là người cuối cùng ở lại cõi đời vô thường này?
Về đến Hoa Kỳ, nhà tôi, vốn là một nhà
giáo, vẫn tấm-tắc khen-ngợi “Em chưa từng dự một Lễ Nhớ Ơn Thầy Cô
long-trọng và cảm-động như ở Úc.” Tôi đề-nghị các Hội CSV/QGHC và
ACE/CSV gửi về Hội QGHC Úc Châu hình, ngày sinh, ngày qúa vãng của các
thầy, các cô, các bạn CSV đã qua đời để Hội Úc Châu cập nhật Bàn Thờ.
Nếu không đủ chỗ thì in hình nhỏ, nếu không có hình thì chỉ ghi tên trên
bài-vị. Hiện nay Hội Úc Châu chỉ có hình của 8 Thầy.
Đêm Liên Hoan
được tổ-chức rất tưng-bừng, náo-nhiệt, thành-công rực-rỡ. Văn-nghệ rất
hay, MCs lưu-loát, thức ăn đầy-đủ. Đặc-biệt Ban Tổ-chức còn “đãi” anh em
món thịt đuôi con Kangaroo. Nhà Tôi rời bàn ăn, không muốn nhìn tôi ăn
thịt Kangaroo là một con vật Nhà Tôi rất thương-yêu vì chúng có tình mẫu
tử vô cùng đặc-biệt.

Đêm Liên Hoan là một đêm tràn đầy niềm
vui được “Hội Ngộ.” Video đẹp, rõ-ràng nhưng chỉ tiếc là mỗi khi anh
Đượm hay MC giới-thiệu ai thì video vẫn chỉ chiếu hình anh Đượm hay MC
chứ không thấy “long nhan” của người được giới-thiệu. Video cũng ít
chiếu hình những bàn ở xa.

Đêm Liên-Hoan
Xin chân thành cám ơn Anh Hà, Anh Thái,
Anh Đượm và Ban Tổ Chức đã bỏ công, bỏ của, bỏ thời giờ tổ-chức một cuộc
Hội Ngộ vui-vẻ , chu-đáo, đẹp-đẽ, thành-công vượt bực mặc dù Cờ Luân
Lưu đã có lần bị gửi trả lại cho Hội CSV/QGHC Nam Cali để tìm một hội
khác tổ-chức HNLK 2018. Với tư cách là một thành viên của Hội CSV/QGHC
Miền Đông, tôi đang lo-ngại cho Hội của tôi sang năm tới rất khó “qua
mặt” được Hội CSV/QGHC Úc.

Đêm Liên-Hoan
Tổ-chức nào cũng có người khen, kẻ chê.
Tôi có nghe loáng thoáng mấy lời “xì xào” của vài tham-dự viên và vài
ACE trong Ban Tổ-chức nhưng, các anh ơi, không bao giờ chúng ta có thể
thỏa-mãn 100% mọi người. Người không bao giờ bị chỉ-trích là người không
làm gì và cũng chẳng bao giờ phát-biểu ý-kiến, chẳng bao giờ viết một
bài gì. Học-viện QGHC đào-tạo sinh-viên thành những công-chức cao-cấp.
Dù theo nhiều ngành hành-chánh, quân-sự khác nhau nhưng nói chung, các
cựu sinh-viên này đều phải điều-khển nhân-viên dưới quyền để đạt
mục-đích phục-vụ dân chúng. Khi làm nhiệm-vụ này, chúng ta khó (có thể
là không bao giờ) thỏa-mãn 100% nhân-viên dưới quyền và thỏa-mãn 100%
dân chúng.
Cruise Sydney-Great Barrier Reef
Sau Đêm Liên Hoan, 56 người đi cruise
Sydney-Great Barrier Reef với Carnival Legend. Tôi đã đi cruise nhiều
lần và tôi không thích đi cruise vì tôi thấy rất “boring.” Tuy nhiên tôi
thông-cảm rằng đi cruise là cách tổ-chức dễ nhất cho các Ban Tổ-chức
họp mặt: không phải lo xe bus, không lo ăn uống, không cần tổ-chức
tours, không sợ “trẻ lạc;” mọi việc đều do cruise lo hết. Nếu Ban
Tổ-chức siêng thì lo chụp hình nhóm và sinh-hoạt nhóm trên tàu. Anh Đượm
đã lo hết các vụ này, lo chu-đáo. Trong hai buổi Họp-mặt Nhóm trên tàu,
anh Đượm bao ACE uống rượu “unlimited.” Tiền rượu, thuê phòng họp, thuê
đàn, thuê chuyên-viên âm-thanh đều do tiền bonus của anh khi anh booked
cruise cho ACE (cứ 8 cabins anh được một vé free). Anh đã không bỏ tiền
bonus này vào túi mà bao ACE hết; tôi sợ tiền bonus này không đủ trả
tiền rượu cho ACE; có lẽ “Cô Thắm” phải chi thêm. Hoan Hô Anh Chị Đượm!

Cruise Great Barrier Reef
Chuyến đi cruise có một chuyện làm nhiều
người bất-mãn là đã không được đi thăm Great Barrier Reef mặc dù tên
chuyến đi là Sydney – Great Barrier Reef. Tàu Carnival chở hơn 2,500
hành-khách mà khi đi thăm Great Barrier Reef chỉ có một tàu nhỏ chở 60
người; khi chúng tôi ghi tên thì đã hết chỗ. Sau cùng, Carnival tăng
thêm một tàu nhỏ 60 chỗ nữa, chúng tôi hí-hửng ghi tên. Sáng hôm sau
Carnival thông-báo tàu nhỏ thứ hai không có glass bottom; như vậy
hành-khách không nhìn thấy san-hô và cá lội. Chúng tôi đành hủy-bỏ
chuyến đi thăm Great Barrier Reef và đi thăm quanh Airlie Beach. Đi Úc
mà không thăm được Great Barrier Reef là một thiếu-sót lớn. Tụi tôi buồn
mà anh Đượm cũng rất buồn.
Uluru / Ayers Rock
Đi cruise về, vợ chồng tôi tạm-biệt ACE rồi bay vào sa-mạc Úc thăm Uluru / Ayers Rock. Uluru là một hòn đá nguyên khối (monolith) lớn thứ nhì trên thế-giới, chỉ thua Mount Augustus (Burringurrah) ở Western Australia. Tính từ mặt đất, Uluru cao 348 m (1,142 ft) [1],
nhưng nếu tính từ mực nước biển, Uluru ở độ cao 863 m (2,831 ft).
Chu-vi hòn đá Uluru phần sát mặt đất là 9.4 km (5.8 mi). Người thổ-dân
Anangu gọi hòn đá là Uluru, một địa-danh linh-thiêng của họ. Người Âu
Châu tìm thấy Uluru năm 1872; năm sau họ đặt tên hòn đá là Ayers Rock để
vinh-danh Sir Henry Ayers, Chief Secretary of South Australia. Sau vài lần thay đổi, tên chính-thức từ 2002 là “Uluru / Ayers Rock.”
________
[1] phần dưới mặt đất của Uluru lớn hơn phần trên mặt đất nhiều

Uluru / Ayers Rock
Uluru là một “hòn đảo núi” (inselberg
hay island mountain) là một ngọn núi nổi lên giữa một vùng đất
bằng-phẳng có khí-hậu khô, nóng. Hàng trăm triệu năm trước đây nước biển
tràn ngập khu-vực này mang theo nhiều “phù-sa” gồm đất, cát và đá. Cát
này rất lớn có đường kính từ 2 đến 4 millimeters. Nước biển rút đi mang
theo đất nhưng để lại cát và đá tương-đối nặng hơn. Nhờ những chất
hoá-học calcite, clays, và silica mang tới từ những dòng nước ngầm, cát
và đá “dính” lại thành một khối: “sands” trở thành “sandstone,” Uluru là
một sandstone (sa thạch). Sau hàng trăm triệu năm, khối sandstone này
trở thành một hòn đá nguyên-khối trồi lên mặt đất trong thời-kỳ Petermann Orogeny[1] cách đây khoảng 550 triệu năm[2].
Cùng vào thời-gian này, những hòn đá ở vùng Kata Tjuṯa, cách Uluru 25
cây số, cũng được tạo dựng tương-tự như Uluru. Kata Tjuta có nhiều hòn
đá nhưng đều nhỏ hơn Uluru. Ngày nay, cả Uluru và Kata Tjuta cùng nẳm
chung trong Uluṟu–Kata Tjuṯa National Park.
__________
[1] Orogeny là sự tạo núi hay mountain building
[2] ký-hiệu là 550 Ma (Ma viết tắt chữ megaannum, đơn-vị đo thời-gian cho một triệu năm)
___________
Người thổ-dân Anangu tin rằng Uluru và
Kata Tjuta là địa-danh linh-thiêng của họ; Uluru có nghĩa là “Mẹ Trái
Đất” (Earth Mother). Tổ-tiên người Anangu đã định-cư tại vùng này từ
10,000 năm trước. Thổ dân Anangu không bao giờ bước chân trên mặt các
hòn đá, nhất là Uluru, vì họ tin rằng đó là một điều bất-kính, một
tội-lỗi với thần-linh của họ. Gần trăm năm qua, người Anangu cố-gắng
vận-động Chính-phủ Úc cấm các du-khách đi trên mặt Uluru; có lúc họ
thắng nhưng rồi lại thua. Năm 2017, Uluṟu–Kata Tjuṯa National Park mới
ra quyết-định cấm không cho ai được leo qua Uluru kể từ ngày 26 tháng 10
năm 2019. Tôi cũng muốn leo qua một lần cho biết nhưng hãng du-lịch của
tôi rất thân-thiết với người Anangu nên không tổ-chức hoạt-động này;
chúng tôi chỉ đi bộ quanh chân các hòn đá. Khi dừng lại uống trà, cà-phê
chúng tôi cũng không được đổ trà, cà-phê, nước ngọt thừa xuống đất; cô
hướng-dẫn-viên du-lịch đem những nước thừa này về đổ ở thành-phố. Cô ta
nói thẳng với chúng tôi là không được tiểu tiện ở đây. Cô ta cho hay
ngoài tính cách thiêng-liêng của vùng này, cây cỏ ở đây có thể chết vì
những thứ “nước lạ” này, mà cây cỏ ở vùng sa-mạc rất quý. Nhà Tôi cũng
không muốn tôi leo lên đỉnh Uluru vi dốc cao và trời nóng 106° F [1]. Kể từ thập-niên 1950s đã có 37 người chết vì leo qua Uluru và nhiều người khác phải nhờ trực-thăng chở về bệnh-viện.
[1] bây giờ đang Mùa Xuân; Mùa Hè có thể nóng tới 115° F (46° C), mùa Đông có thể xuống tới 23° F (-5° C).

Leo qua Uluru

Sunset at Uluru
Uluru
thay-đổi màu sắc trong ngày tùy theo thời-tiết, ánh sáng. Đặc-biệt
Uluru có màu đỏ thắm tươi đẹp khi mặt trời mọc và lặn. Phần lớn du-khách
tới đây đều đi thăm “Sunrise at Kata Tjuta” và “Sunset at Uluru”.
Uluṟu–Kata Tjuṯa National Park có sẵn nhiều nơi để du-khách đứng coi
cảnh này. Tôi cũng dậy từ 3:30 sáng vì xe bus đến đón lúc 4:30 để đi xem
Sunrise at Kata Tjuta. Hàng ngàn người chen chúc nhau, máy hình trong
tay, dành nhau chỗ tốt để xem những cảnh đẹp của mặt trời.
Uluru và Kata Tjuta là sa-mạc nhưng cũng
có nhiều loại thú, đặc-biệt có Red Kangaroo, đà-điểu (emu), và lạc-đà
(camel). Cuối thế-kỷ 19, người Anh mua lạc-đà từ Ấn Độ, Afghanistan để
chuyên-chở dụng-cụ xây cất vào vùng sa-mạc Úc. Khi có phương-tiện
chuyên-chở cơ-khí họ thả lạc-đà sống tự-do ở sa-mạc. Khí-hậu ở đây rất
thích-hợp với lạc-đà nên hiện nay Úc có khoảng 700,000 con lạc-đà hoang;
nhiều nhất trên thế-giới. Chính-phủ Úc đang tìm cách giảm số lạc-đà này
vì chúng dành ăn cỏ, cây hiếm-hoi ở sa-mạc với những con vật khác.
Nhiều người cũng tìm bắt lạc-đà hoang đế bán sang Afghanistan, Pakistan
vì lạc-đà ở những nơi này bị chết nhiều vì chiến-tranh. Giá một con
lạc-đà bán sang Afghanistan hay Pakistan khoảng một triệu đồng Úc.
ACE/CSV/QGHC nào còn khỏe-mạnh nên sang Úc bắt lạc-đà hoang; mỗi năm chỉ
cần bắt được một con cũng đủ nhậu nhẹt lai-rai.
Sống ở vùng sa-mạc Uluru / Ayers Rock ba
ngày là một kỷ-niệm khó quên của vợ chồng tôi. Ngày nào cũng nóng trên
100° F, ra khỏi cửa là lo đuổi ruồi, muỗi, và nhiều con “bugs” khác. Vậy
mà chúng tôi rất vui-thích được thăm vùng sa-mạc cằn-cỗi này.
Report this ad
Melbourne
Vợ chồng tôi nằm ở Melbourne một tuần để
chờ ngày đi The Ghan nên có nhiều thời-giờ thăm viếng Melbourne và vùng
phụ-cận. Melbourne có nhiều tours du-lịch, có lẽ hai tours được nhều
người đi nhất là “Great Ocean Road Tour” và “Phillip Island Penguin
Parade Tour”.

Twelve Apostles
Tour Great Ocean Road
đi thăm một vùng bờ biển đẹp với những trụ đá nằm dọc theo bờ biển (gần
giống bờ biển Oregon). Có 12 trụ đá gọi là Twelve Apostles. Nếu đi vào
buổi chiều thì có thể thấy cảnh đẹp của hoàng-hôn trên mặt biển: mặt
trời từ từ lặn xuống mặt nước biển.
Đi tour Great Ocean Road, chúng tôi được
đi ngang một khu-vực đồi núi thấp với những đồng cỏ mênh-mông; bò, cừu
tràn-lan trên đồng cỏ. Khu này do các cựu-chiến-binh Thế Chiến II
định-cư. Sau cuộc Thế Chiến II, các cựu-chiến-binh Úc không có việc làm
lại không còn lương quân-nhân nên rất nghèo-đói. Chính-phủ Úc đem họ lên
vùng rừng núi âm-u này để khai-hoang. Chính-phủ không đầy họ lên đây
như một Vùng Kinh-tế Mới của Việt Cộng; Chính-phủ Úc đem theo máy ủi đất
hạng nặng, máy cày, máy cưa…để phá rừng làm rẫy rồi bán đất cho các
cựu-chiến-binh với một giá tượng-trưng, gần như cho không.
Chính-phủ và nhân-dân Úc luôn luôn
kính-trọng và biết ơn các cựu-chiến-binh. Hầu như thành-phố lớn nào cũng
có các Trung-tâm trưng-bày hình ảnh các cuộc chiến-tranh mà người Úc đã
tham-dự. Các cựu-chiến-binh Việt-Nam cũng được Úc công-nhận vì đã
chiến-đấu cạnh chiến-sĩ Úc trong cuộc Chiến-tranh Việt-Nam; các
cựu-chiến-binh Việt-Nam cũng được hưởng quyền-lợi về ý-tế, hưu-bổng…như
cựu-chiến-binh Úc. Thật là một Tình Huynh Đệ Chi Binh không đâu có trên
thế-giới. Chính-phủ Hoa-kỳ đã đài-thọ hầu hết chiến-phí cho cuộc chiến
Việt-Nam nhưng sau cuộc chiến, họ cũng không có một chính-sách
cựu-chiến-binh cho người Việt như ở Úc. Mấy trăm chiến-sĩ Biệt-kích đã
phải mướn luật-sư kiện Chính-phủ Hoa-kỳ mới được bồi-hoàn mỗi người vài
nghìn US Dollars, tiền lương cho mấy chục năm bị tù. Họ đã được Hoa-kỳ
tuyển-dụng (trực-tiếp hoặc gián-tiếp), huấn-luyện và thả dù ra Miền Bắc
để hoạt-động gián-điệp. Đa số bị bắt và bị tù nhiều năm. Năm 1973, họ
cũng không được nằm trong chương-trình trao-đổi từ-binh như đã quy-định
trong Hiệp-định Đình-chiến Paris vì họ là những”chiến-binh không có quân
số.” Thật ra Chính-phủ và nhân-dân Hoa-kỳ đã hy-sinh rất nhiều trong
việc định-cư mấy triệu người Việt-Nam gồm những người tị-nạn năm 1975,
những người vượt biển, vượt biên, những người đến Hoa-kỳ theo
chương-trình H.O. và chương-trình đoàn-tụ gia-đình ODP. Chúng tôi xin
thành tâm cám-ơn Chính-phủ và nhân-dân Hoa-kỳ đã mở rộng vòng tay
đón-tiếp chúng tôi, chúng tôi không hề than-vãn, so-sánh với chính-sách
cựu-chiến-binh của Úc. Chương-trình H.O. là một quyền-lợi đặc-biệt,
vĩ-đại cho các cựu-chiến-binh Việt-Nam. Chương-trình H.O. đầy ắp tình
người.
Những khu rừng âm-u, khỉ ho cò gáy đã
được các cựu-chiến-binh Úc khai-phá thành những đồng cỏ mênh-mông, bò,
cừu tràn-lan. Vùng nầy bây giờ là xương sống của nền chăn-nuôi ở Úc. Năm
2017, dân-số Úc là 24.3 triệu người; họ có 27.8 triệu con bò, 99.3
triệu con cừu; như vậy mỗi người Úc có hơn một con bò và hơn 4 con cừu.
Úc đứng thứ 4 trong năm nước trên thế-giới có số bò nhiều hơn dân số.
Làm sao mà họ đói được? Nhìn những đàn bò, đàn cừu đi ăn trên những đồng
cỏ mênh-mông mà thương cho những con bò, con trâu ở quê-hương mình,
thương cho dân mình!

Knickers, một con bò khổng-lồ ở Australia

Cừu ở Australia
Tour Phillip Island Penguin Parade
thì không được như ý muốn. Nhìn hình quảng-cáo cũng như nhớ lại hình
ảnh trên TV, tôi tưởng sẽ được thấy hàng ngàn con penguins chạy
lạch-bạch trên bãi cát đề về nhà. Không có như vậy. Ngồi chờ gần hai
giờ, tôi chỉ thấy có 12 con penguins chạy từ biển qua bãi cát đề về nhà
trong đám cỏ. Gió biển lạnh quá nên vợ chồng tôi bỏ cuộc, đi lên nhà
hàng ăn chờ xe bus đến đón. Trời lạnh nhưng vẫn có hàng ngàn người ngồi
dưới bãi biển chờ xem “Penguin Parade.” Không ngờ trên đường về chúng
tôi lại thấy rất nhiều penguins chạy dọc theo con đường dẫn lên nhà hàng
ăn. Thì ra có nhiều con penguins đã vượt bãi cát ở những chỗ tối nên
chúng tôi không thấy. Chính lúc thất vọng nhất lại được xem vài trăm con
penguins. Penguins ở đây rất nhỏ, chỉ nhỏ bằng con vịt; penguins ở
Australia và New Zealand là penguins nhỏ nhất trên thế-giới.

Penguins ở Australia
Những tours du-lịch ở Melbourne có rất
nhiều du-khách Tầu; tour nào họ cũng chiếm hơn một nửa. Họ đi thành từng
đoàn, có hướng-dẫn-viên du-lịch người Tầu. Họ nói chuyện lớn tiếng như
chỗ không người, chen ngang vào những hàng người đang xếp hàng chờ đợi.
Họ hút thuốc lá, xả rác công-khai. Năm ngoái vợ chồng tôi đi sang Âu
Châu cũng đã gặp cảnh này. Nhiều người Âu Tây liếc nhìn mình làm mình
xấu-hổ; chắc họ cũng tưởng vợ chồng tôi là Tầu, có những hành-động xấu
tương-tự. Ở khu xem “Penguin Parade” luôn luôn có những loan-báo bằng
tiếng Tầu theo sau loan-báo bằng tiếng Anh. Phi-trường, khách-sạn ở
Melbourne cũng in chữ Tầu ở dưới các bảng chỉ-dẫn bằng chữ Anh. Nhiều
người Tầu có máy “thông-dịch” nhỏ: họ nói vào máy bằng tiếng Tầu rồi bấm
nút dịch sang tiếng Anh. Đôi khi tôi và người Úc cũng chẳng hiểu lời
dịch tiếng Anh của họ.
Theo Tổ-chức Du-lịch thế-giới của Liên
Hiệp Quốc, du khách Tầu chi $257.7 tỷ USD trong năm 2017, đứng nhất trên
thế-giới trong khi du khách Hoa-kỳ (đứng thứ nhì trên thế-giới) chỉ
tiêu có $135.0 tỷ USD. Năm 2017 có 130.5 triệu người Tầu du-lịch nước
ngoài, tăng gấp 3 lần so với 10 năm trước. Du-khách Tầu là mối lo lớn
cho các nước trên thế-giới dù họ mang đến lợi-ích kinh-tế qua ngành
du-lịch. Nhưng lợi mà họ đem lại không bằng cái hại họ gây ra về
môi-sinh, về thuần-phong mỹ-tục của dân chúng địa-phương.
The Ghan là một trong những đoàn tàu vận chuyển hành-khách bằng đường sắt dài nhất trên thế-giới, chạy xuyên qua sa-mạc Úc. Cái tên “The Ghan”
và huy-hiệu hình một người cưỡi lạc-đà được đặt theo tên Afghanistan
(hay còn gọi là Ghan) vì lạc-đà nhập-cảng từ Afghanistan đã đưa những
người thám-hiểm đầu tiên vượt qua sa-mạc Úc vào cuối thế kỷ 19.
The Ghan
The Ghan chạy từ Adelaide, miền Nam nuớc Úc, tới Darwin, miền Bắc[1]
. The Ghan đi qua rất nhiều địa danh tuyệt vời của Australia như: Alice
Springs, Tennant Creek, Kulgera, Kingoonya, Katherine…; với chiều dài
quãng đường là 2,979 km. Chuyến tàu đi hết 3 ngày 2 đêm[2].
Hiện nay, The Ghan có ba loại vé: Red Service, Gold Service, và
Platinum Service; gía vé rất khác nhau. Gold Service lại chia ra mấy
loại nữa. Đoàn xe có chiều dài trung-bình 902 meters có 25 giường
Platinum Service, 258 giường Gold Service và một số toa Red Service, nhà
hàng ăn, máy điện, toa chứa nước, diesel, và các vật-liệu khác.
Đầu tháng 6 tôi vào website của The Ghan
để xem tin-tức chứ không định mua vé vì sớm quá; mãi ngày 1 tháng 11
Cruise Great Barrier Reef mới về lại Sydney. Không ngờ khi vào website
của The Ghan tôi mới biết hầu hết vé các chuyến xe sau ngày 1 tháng 11
đã “sold out.” Chuyến ngày 4 tháng 11 thì còn mấy vé Gold Service nhưng
đi chuyến này thì hơi trục-trặc vì tôi định thăm Melbourne trước The
Ghan. Chuyến xe ngày 11 tháng 11 thì Gold Service và Red Service đều
“sold out,” chỉ còn vé Platinum Service.
[1] tàu sẽ đi ngược lại cho chuyến tàu Southbound, bán vé riêng biệt
[2] có những chuyến xe đặc-biệt, “The Ghan Expedition,” đi 4 ngày 3 đêm, giá vé đắt hơn
Report this ad
The
Ghan chạy qua vùng sa-mạc khô-cằn, cây cỏ thấp, thưa-thớt. Đất phần lớn
màu đỏ nên người ta gọi vùng này là “Red Centre” bao gồm Uluru, Kata
Tjuṯa và là trung-tâm-điểm của Australian Outback. Thỉnh-thoảng tôi thấy
vài con bò, cừu mà tôi không biết là bò hoang, cừu hoang hay của
thổ-dân nuôi? Đặc-biệt tôi thấy có nhiều đám muối trắng, không biết muối
này có liên-hệ gì đến nước biển mấy triệu năm trước hay không?

The Ghan
Từ Adelaide, trạm dừng đầu tiên là
Manguri. Chúng tôi xuống tàu từ 4 giờ sáng để xem mặt trời mọc. Manguri
chỉ là trạm xe lửa của The Ghan ở giữa sa-mạc chứ không phải là một
thành-phố. Chúng tôi quây-quần quanh hai đống lửa trại để ăn sáng chờ
mặt trời mọc. Chúng ta quen dùng những chữ mặt trời mọc, sunrise, mặt trời lặn, sunset
là sai, hoàn-toàn phản khoa-học. Mặt trời không mọc, không lặn mà đứng
yên một chỗ bởi vì mặt trời là một định-tinh. Thời Cổ Hy-lạp, những chữ
này được coi là rất đúng vì người ta tin rằng trái đất là trung-tâm của
vũ-trụ, mặt trời, mặt trăng và các tinh tú xoay quanh trái đất
(terracentric).

Mặt Trời mọc ở sa-mạc Úc
Trước khi đến Darwin, The Ghan dừng lại
rất lâu ở hai trạm Alice Springs và Katherine. Ở hai trạm này, du-khách
chọn đi những tours du-lịch địa-phương khác nhau. Alice Springs là một
thành-phố nằm giữa sa-mạc mà cũng có một Đài Kỷ-niệm các trận chiến
Quân-đội Úc đã tham-dự, trong đó có Việt-Nam. Katherine có nhiều cảnh
đẹp hơn, tôi chọn đi thuyền trên sông Katherine để thăm các Nitmiluk
Gorgges; phong-cảnh rất đẹp.

Nitmiluk Gorgges

The Ghan
Tưởng cần nói thêm là ở Melbourne,
du-khách người Tầu chiếm hơn 50%; ở Uluru / Ayers Rock tỉ-lệ này chỉ còn
dưới 10%. Đi The Ghan, chúng tôi chỉ gặp một người Á Châu trong số hơn
350 du-khách.
New Zealand: “Kia Ora,”
Kia Ora là tiếng chào thông-dụng ở New
Zealand. Kia Ora nguyên nghĩa là “Chào mạnh giỏi” và thường dùng như
“Hello.” New Zealand rất đẹp nên du-lịch là một phần quan-trọng trong
nền kinh-tế New Zealand. Năm 2016, New Zealand thu được $12.9 tỷ USD về
du-lịch (5.6% GDP) và xử-dụng 7.5% nhân lực toàn quốc.
New Zealand đứng thứ hai trong năm nước
có số bò nhiều hơn số dân. Năm 2017, dân-số New Zealand là 4.6 triệu mà
có tới 9.9 triệu con bò và 39.6 triệu con cừu. Tính ra mỗi người dân New
Zealand có 2.17 con bò và 8.6 con cừu. Đi đâu cũng thấy đồng cỏ
mênh-mông; bò, cừu đầy đồng; vườn nho, vườn kiwi tươi-tốt.
Nữ Hoàng Anh cũng là Nữ Hoàng của Australia và New Zealand[1];
tuy nhiên, quyền-hành nằm trong tay các Thủ-tướng (Prime Minister).
Thủ-tướng hiện-tại của New Zealand là Jacinda Ardern. Bà là nữ lãnh-tụ
quốc-gia trẻ nhất trên thế-giới. Bà là người lãnh-tụ quốc-gia thứ hai
sinh con khi tại chức [2].
Tuy nhiên Bà Ardern lại là lãnh-tụ quốc-gia thứ nhất bế con nhỏ đi họp
Liên Hiệp Quốc. Tòa nhà Dinh Thủ-tướng có mái tròn với nhiều khuôn cửa
sổ trông giống như một tổ ong nên dân chúng gọi đùa là “Beehive;”
Chính-phủ New Zealand bèn đặt tên website của mình là “beehive.govt.nz.”
Dân chúng gọi Jacinda Ardern là “Queen Bee.”
Report this ad
_________
[1] New Zealand vốn là thuộc-địa của Anh từ 1841, được độc-lập năm 1947.
[2] người thứ nhất là Thủ-tướng Benazir Bhutto của Pakistan
_________
New Zealand chọn con chim kiwi là
biểu-tượng cho đất nước mình nên người ta gọi người dân New Zealand là
Kiwi. Khi dùng để gọi người New Zealand chữ Kiwi viết với chữ K hoa, khi
dùng để chỉ chim kiwi, chữ kiwi viết với chữ k thường. Ngoài ra, khi
dùng để chỉ người New Zealand, chữ Kiwis có “s” cho số nhiều nhưng khi
dùng để chỉ chim kiwi thì số nhiều cũng không có “s”. Bởi vậy “two
Kiwis” là hai người New Zealand còn “two kiwi” là hai con chim kiwi. Rất
nhiều người trên thế-giới, kể cả người Việt-Nam, đều biết hình chim
kiwi. Các bạn đi lính chắc còn nhớ dầu đánh giày hiệu Kiwi; đây là một
sản-phẩm của New Zealand đang bán trên khắp các nước trên thế-giới và
con chim kiwi này là biểu-tượng cho nước New Zealand.

Auckland
Auckland là thành-phố lớn nhất New
Zealand có dân-số 1.6 triệu người, khoảng một phần ba dân-số New
Zealand. Trước đây (1842 – 1865) Auckland là thủ-đô của New Zealand. Tôi
ở Khách-sạn SkyCity Hotel nằm sát cạnh Sky Tower. Sky Tower cao 328
meters, cao hơn Tháp Eiffel 28 meters và cao gấp 3.5 lần Tượng Nữ Thần
Tự-do. Sky Tower có thể chịu-đựng được động đất với cường độ 8.0 độ
Richter. Auckland là thành-phố duy nhất trên thế-giới được xây-dựng trên
một vùng núi lửa vẫn còn hoạt-động. Cũng nhờ núi lửa, Auckland có nhiều
động đá (caves) rất đẹp.

Auckland với Sky Tower
Trên đường từ Auckland đến Rotorua, chúng tôi ghé thăm Động Waitomo Glowworm.
Động này không lớn bằng Động Luray Caverns ở Virginia nhưng Waitomo
Glowworm Caves không có đèn điện, chỉ có nhiều ánh-sáng của những con
glowworms bám trên trần, trên tường, có chỗ phải đi bằng thuyền nên có
vẻ âm-u, kỳ-bí như trong truyện kiếm-hiệp. Glowworms là những côn-trùng
phát ra ánh sáng như con đom đóm. Glowworms có nhiều loại và có ở nhiều
nơi trên thế-giới nhưng con Glowworms Arachnocampa Luminosa sống trong
Waitomo Glowworm Caves thì chỉ có ở New Zealand. Đời sống của con
glowworm này kéo dài độ 11 tháng và chia ra làm 4 thời-kỳ: trứng,
ấu-trùng, con nhộng, và con glowworm. Con glowworm mẹ đẻ từng chùm
trứng, mỗi chùm có khoảng từ 30 đến 40 trứng. Sau 20 ngày trứng nở ra
con ấu trùng. Ấu trùng tự làm tổ, phát ra ánh sáng để dẫn-dụ những con
mồi. Tổ nó làm bằng những sợi tơ có nhựa dính nên dễ bắt mồi. Ấu trùng
sống như vậy khoảng 9 tháng thì biến thành con nhộng tương tự nhộng tằm.
Con nhộng sống 13 ngày thì cắn tổ nở thành con glowworm giống như một
con muỗi to. Con glowworm không có miệng nên sẽ chết đói sau vài ngày.
Nhiệm-vụ của chúng trong vài ngày ngắn-ngủi này là đẻ trứng; mỗi con
glowworm cái đẻ độ 120 trứng. Cuộc đời của chúng còn buồn hơn đời sống
con ve sầu.

Glowworms trong Waitomo Glowworm Caves
Waitomo Glowworm Caves không cho chụp
hình, quay phim. Hình tôi đứng trong Động là một hình ghép. Trước khi
vào Động họ chụp hình cho mọi người, chụp đủ kiểu. Khi cô thợ chụp hình
yêu-cầu tôi chỉ tay lên trời, tôi không hiểu ý định của cô ta. Cô ta
ghép hình này với một hình trong Động, ngón tay tôi chỉ lên những con
glowworms như diễn-tả cảnh đẹp kỳ bí của chúng. Những hình này họ bán
cho du-khách rất dễ-dàng[1] .
Trung-tâm-điểm của Waitomo Glowworm
Caves là The Cathedral, chỗ cao nhất trong Động có nhiệt độ 14° C quanh
năm suốt tháng. Sự cấu-tạo của trần và vách tường thạch-nhũ chung quanh
The Cathedral đã khuếch-tán âm-thanh một cách tuyệt-vời. Nhóm du-khách
nào cũng có một người hát ở The Cathedral. Đi xa The Cathedral vẫn còn
nghe thấy du-khách Tầu hát. Có đoàn du-khách Tầu đã sửa-soạn trước đồng
ca một bài ca hùng-tráng; chắc là nhạc Cách-mạng Văn-hóa hoặc nhạc chiếm
Trường-sa, Hoàng-sa của Việt-Nam. Tôi định trở lại The Cathedral để hát
bài Hội-nghị Diên Hồng hoặc Bạch Đằng Giang để trả lời họ nhưng thấy
cũng hơi lố-bịch nên lại thôi. Hơn nữa nhóm tôi đã có một người Đức hát
một bài nhạc cổ-điển Tây-phương rất hay.
_________
[1] tương-tự như các du-thuyền
___________
30 triệu năm trước, Waitomo ở sâu dưới mặt nước[1]
với những hòn đá vôi bắt-đầu hình thành. Khi núi lửa hoạt-động đã đẩy
những hòn đá vôi này trồi lên mặt nước; những hòn đá vôi này cũng bị
rạn-nứt tạo ra nhiều khe nhỏ. Nước chảy qua những khe này chảy vào
khoảng trống bên dưới. Đá vôi theo nước đọng lại ở chỗ nhỏ nước trên
trần và ở chỗ nước nhỏ xuống nền. Chỗ đá vôi đọng lại trên trần gọi là
“stalactites,” chỗ đá vôi đọng lại dưới nền là “stalagmites.” Cứ mỗi 100
năm đá vôi đọng lại được một phân khối (1 cubic centimeter). Khi
stalactites gặp stalagmites sẽ tạo nên một cây thạch-nhủ từ trần xuống
nền gọi là “helicti,” chu-kỳ này cần mấy trăm nghìn năm mới hoàn-thành.
[1] Waitomo là chữ Maori; wai có nghĩa là nước, tomo là động sâu

Waitomo Glowworm Caves
Quanh vùng Auckland chúng tôi còn đi thăm nông-trại Agrodome
xem họ cắt lông cừu, dùng chó đuổi cừu vào chuồng…Trước đây tôi cứ
tưởng trái kiwi mọc trên cây (trees) nhưng đến Agrodome tôi mới biết
kiwi leo như nho (vines); gốc và nhành đều lớn hơn cây nho nhiều. New
Zealand trồng rất nhiều kiwi. Phải tới năm 1966 Hoa-kỳ mới nếm thử
mùi-vị trái kiwi và những trái kiwi đầu tiên này đã nhập-cảng từ New
Zealand. Ngày nay nhiều người Mỹ “nghiện” mùi-vị ngọt, chát, chua của
kiwi và thích những chất bổ-dưỡng của kiwi. Có thuyết cho rằng tên trái
kiwi do người New Zealand đặt ra từ giữa thế-kỷ 20. Họ đổi tên từ
“gooseberry”[1]
thành “kiwi” vì thấy trái kiwi và cái bụng con chim kiwi hơi giống
nhau. Mặt khác, thời ấy các sản-phẩm mang tên Kiwi, hình ảnh tượng-trưng
của New Zealand, được hưởng thuế nhẹ.
[1] tên gọi trái kiwi ở Tầu; Tầu là nước trồng kiwi nhiều nhất trên thế-giới.
Chúng tôi thăm làng Te Puia để xem những
tục-lệ cổ-truyền của người Maori. Buổi tối, chúng tôi lại ghé thăm
Mitai Maori Village để xem những vũ-khúc văn-hóa cổ-truyền của họ, xem
họ diễn lại những chiến trận trên sông. Tối đó chúng tôi thưởng-thức
“hangi dinner” của người Maori, một bữa ăn nấu trên đá nóng. Họ đào một
hầm sâu, đốt củi thành than rồi kê một tấm đá lớn trên mặt than hồng.
Gà, cừu, khoai tây, các loại rau đuợc “nướng” trên tấm đá nóng này.

Nông-trại Agrodome
Mitai Maori Village
Trên đường từ Rotorua đi Napier,
chúng tôi đi ngang rừng Kaingaroa, một rừng thông nhân tạo lớn nhất
thế-giới, rộng 2,900 cây số vuông. Xe bus chạy 100 cây số một giờ mà đi
mãi vẫn không hết rừng thông nhân tạo. Dân số New Zealand chưa tới 5
triệu (ít hơn dân số nhiều thành-phố) mà họ trồng được một rừng thông
vĩ-đại như vậy trong khi Việt-Nam cứ chặt cây rừng bán cho Nhật và Tầu.
Napier là một thành-phố nhỏ, dân-số
khoảng 64 ngàn, nhưng đón tiếp nhiều du-khách nhờ kiến- trúc Arc Deco,
hòa nhạc, và hải-cảng quan-trọng. Trận động đất năm 1931 hầu như
hủy-diệt Napier, nhất là khu trung-tâm thành-phố. Trận động đất cường-độ
7.8 này giết hại 256 người và là một thiên-tai giết hại nhiều người
nhất trong lịch-sử New Zealand. Bên cạnh sự tàn-phá kinh-khủng này, trận
động đất lại tạo nên 40 cây số vuông đất mới vì đã nâng vùng bờ biển
lên khoảng 2 meters (đáy Đầm Ahuriri Lagoon được nâng lên 2.7 meters).
Người hướng-dẫn-viên du-lịch đưa chúng tôi đi thăm thành-phố
thỉnh-thoảng lại dậm chân xuống sàn xe “This was water before.”
Mission Estate do các Cha người Pháp
thành-lập ở New Zealand vào năm 1838 nhằm mục-đích giảng Đạo Thiên Chúa
và trồng nho. Năm 1851, Mission Estate xây-cất trụ-sở ở Pakowhai nhằm
nuôi bò, trồng nho và cây ăn trái. Mission Estate là nhà máy làm rượu
nho đầu-tiên ở New Zealand. Năm 1858, các Cha mua được một miếng đất mới
ở gần Napier nên dọn về đây. Trụ-sở Nhà Dòng là một căn nhà gỗ rất lớn.
Các Cha cắt căn nhà này ra làm 11 phần và chuyển về miếng đất mới bằng
các dụng-cụ di-chuyển thô-sơ. Các Cha làm thêm căn phòng chính rồi ghép
11 “miếng nhà” từ trụ-sở cũ vào. Riêng Nhà Thờ thì các Cha không chuyển
về và quyết-định xây một Nhà Thờ mới bằng đá. Trận động đất 1931 đã
phá-hủy Nhà Thờ đá, giết hại 2 linh-mục và 7 tu-sĩ trong khi trụ-sở Nhà
Dòng ghép lại bằng 12 “miếng” bằng gỗ lại không việc gì. Thật là kỳ-lạ!

Ahuriri Lagoon trước (trái) và sau (phải) trận động đất
Nhà Dòng là một căn nhà gỗ rất lớn. Các
Cha cắt căn nhà này ra làm 11 phần và chuyển về miếng đất mới bằng các
dụng-cụ di-chuyển thô-sơ. Các Cha làm thêm căn phòng chính rồi ghép 11
“miếng nhà” từ trụ-sở cũ vào. Riêng Nhà Thờ thì các Cha không chuyển về
và quyết-định xây một Nhà Thờ mới bằng đá. Trận động đất 1931 đã phá-hủy
Nhà Thờ đá, giết hại 2 linh-mục và 7 tu-sĩ trong khi trụ-sở Nhà Dòng
ghép lại bằng 12 “miếng” bằng gỗ lại không việc gì. Thật là kỳ-lạ!
Năm 1931, tờ báo The Dominion nói
“Napier là một thành-phố đã bị xoá tên trên bản-đồ” (Napier as a town
has been wiped off the map). Mười năm sau, tờ báo New Zealand Listener
nhận-xét “Napier đã sống lại từ tro tàn như một con chim Phượng Hoàng”
(Napier had risen from the ashes like a phoenix).[1]
[1] Con chim Phượng Hoàng khi gìa gần chết lại nhẩy vào “tắm” trong lửa để trẻ lại như thời son trẻ.
Wellington
là thủ-đô của New Zealand được gọi là “the World’s Coolest Little
Capital” bởi vì trung-tâm thành-phố chỉ rộng khoảng một cây số vuông.
Tòa nhà trụ-sở của Chính-phủ là một trong những căn nhà gỗ lớn nhất trên
thế-giới. Wellington rất đẹp nhờ có biển, đồi núi bao quanh.
Người dân Wellington có những kỷ-niệm
đẹp với US Marines. Đầu năm 1942, Chính-phủ New Zealand rất lo sẽ bị
Nhật tấn-công trong khi hầu hết lực-lượng New Zealand đang chiến-đấu bên
cạnh Quân-đội Anh ở Âu Châu và Trung Đông. Cùng lúc đó, Hoa Kỳ sửa-soạn
tấn-công Nhật nên muốn tìm một căn-cứ quân-sự để tổ-chức một hậu-phương
vững-chắc nhằm yểm-trợ mặt-trận Thái Bình Dương và săn-sóc các thương
binh. New Zealand là một địa-điểm lý-tưởng.

Wellington – New Zealand
Giữa năm 1942, Sư-đoàn 2 US Marines đã
đổ-bộ lên Wellington làm đẹp lòng cả ba nước New Zealand, Hoa-kỳ, và
Anh. US Marines trải quân quanh thủ-đô Wellington nhưng các quân-nhân
Công-giáo thường đi xem lễ ở Nhà Thờ Old St. Paul’s. Dần dần giáo-dân và
Marines đã vun-đắp những tình bạn thân-thiết, đậm-đà. Từ đó đến nay,
năm nào Nhà Thờ Old St. Paul’s cũng cử-hành một Lễ Cầu-nguyện cho US
Marines. Trong Nhà Thờ vẫn còn treo lá cờ của Second Division of the US
Marines và cờ Hoa Kỳ; Quốc kỳ này chỉ có 48 sao vì hồi ấy, Hoa Kỳ chưa
có hai tiểu-bang Alaska và Hawaii. Ngày nay, nhiều người dân Wellington,
dù sinh ra sau năm 1942, cũng biết tên những con đường, nhà thương…do
US Marines xây nên. Một điểm dễ thương nữa là Wellington có một khu phố
mang tên Brooklyn, cạnh Brooklyn là Central Park; Wellington có nhiều
đường phố mang tên các tổng-thống Mỹ.

Cờ trong Nhà Thờ Old St. Paul’s
Đến Wellington thì phải đi thăm vườn
hồng, đi Cable Car, đi lên đỉnh Mount Victoria, và đi xe Tram. Có hai
vườn hồng mà vườn nào cũng có hàng trăm loại hoa hồng khác nhau. Mount
Victoria cao 196 meters nên từ trên đó có thể nhìn thấy toàn cảnh
Wellington. Xe Tram gần giống như xe điện ở Hà Nội; ngồi trên xe Tram có
thể đi khắp thành-phố, rẻ hơn mua một tour sightseeing. Wellington đẹp
đến nỗi Nhà Tôi muốn dọn qua Wellington ở vài năm để tránh nghe về
Tổng-thống Trump.

Central Park – Wellington, NZ
Christchurch
Năm 1848, John Robert Godley đề-nghị đặt
tên cho thành-phố là Christchurch; Godley vốn tốt-nghiệp từ Trường
Đại-hoc Christ Church ở Oxford, Anh-Quốc. Christchurch được gọi là “The
Garden City” nên rất hãnh-diện với các vườn hoa của mình, nhất là
“Christchurch Botanic Garden” rộng 52 mẫu (acres). Vườn này trồng rất
nhiều loại cây, hoa trên thế-giới. Có cả cây Red Wood đem từ California
sang trồng hơn 100 năm trước, vườn hồng có hơn 250 loại hồng khác nhau.
Christchurch Botanic Garden không thu tiền vào cửa nhưng những hãng
du-lịch cho thuê xe, thuê thuyền đi thăm các nơi trong vườn. Mỗi năm có
hơn 1.1 triệu du-khách thăm-viếng Christchurch Botanic Garden.

Christchurch Botanic Garden
Muốn nhìn Christchurch từ một góc cạnh
khác thì đi xe “Gondola,” một toa xe nhỏ treo vào giây cable rồi kéo lên
đỉnh núi hoặc đưa xuống mặt đất tương-tự như Ski Lift ở những núi trượt
tuyết. Christchurch Gondola đưa du-khách lên đỉnh núi Cavendish, cao
445 meters trên mực nước biển. Từ trên cao, Christchurch giống như cảnh
thần tiên.

Christchurch nhìn từ Mount Cavendish
Năm 2010, một trận động đất cường-độ 7.1
đã tàn-phá Christchurch nặng-nề nhưng không có ai chết. Năm 2011, một
trận động đất 6.3 yếu hơn lại giết hại 185 người. Kể từ 2010 đến 2014,
có 4,558 trận động đất có cường-độ lớn hơn 3.0. Rất nhiều tòa nhà bị
hư-hại mà đến nay vẫn chưa tu-bổ xong kể cả Vương-cung Thánh-đường
Christchurch. Thánh-đường này thuộc Giáo-hội Anglican được xây từ 1864
và hoàn-tất năm 1904; Thánh-đường bị hư-hại trầm-trọng sau nhiều trận
động đất. Năm 2012 Tòa Giám-mục quyết-định phá-hủy ngôi Thánh-đường rồi
xây một Nhà Thờ mới nhưng có nhiều nhóm dân phản-đối; UNESCO World
Heritage Centre cũng hậu-thuẫn cho những nhóm này. Phá-hủy rồi xây một
Nhà Thờ mới sẽ tốn-kém từ $56 triệu tới $74 triệu, và cần từ 4 đến 9 năm
trong khi sửa-chữa lại sẽ tốn-kém từ $104 triệu tới $221 triệu, và cần
từ 6 đến 22 năm. Tiền bồi-thường từ bảo-hiểm động đất là $40 triệu. Tòa
Giám-mục không chịu sửa-chữa vì qúa đắt, phần lớn giáo-dân cũng đang bị
hư-hại nhà cửa nên không thể đòi-hỏi họ đóng góp nhiều cho việc sửa-chữa
Nhà Thờ. Các nhóm dân phản-đối kiện Tòa Giám-mục và họ thắng. Năm 2017,
Tòa Giám-mục quyết-định sẽ sửa-chữa Vương-cung Thánh-đường
Christchurch.
Christchurch là cửa ngõ đi xuống Nam
Cực. Không-quân và Hải-quân Hoa-Kỳ cộng thêm Không -quân New Zealand và
Không-quân Australia đều lấy phi-trường Christchurch làm điểm xuất-phát
để đi tiếp-tế cho các căn-cứ McMurdo và Scott Bases ở Nam Cực. Hậu-cứ
Christchurch chứa hàng ngàn bộ quần áo và đồ phụ-tùng để chống lại
nhiệt-độ cực lạnh dùng cho các chương-trình của Hoa-Kỳ ở Nam Cực.
Christchurch là thành-phố cuối cùng của
cuộc du-lịch “Miệt Dưới” 40 ngày của hai vợ chồng tôi. Đi dự HNLK năm
nay còn là dịp hai đứa tôi kỷ-niệm hơn nửa thế-kỷ chung sống bên nhau,
hơn nửa thế-kỷ trôi-nổi theo vận-mệnh đất nước. Ở New Zealand chúng tôi
đi tour của hãng Thrifty Tours New Zealand nhưng suốt 8 ngày này tôi
không gặp một nhân-viên nào của Thrifty Tours; họ chỉ là người
trung-gian thuê các hãng du-lịch địa-phương để ghép lại thành 8 ngày
du-lịch cho vợ chồng tôi. Từ trước tới nay, khi du-lịch nước ngoài, tôi
đều đi với hãng Grand European Travel hay Trafalgar; họ tổ-chức khác hẳn
Thrifty Tours. Grand European đón mình từ nhà, đưa mình về lại nhà sau
tour. Tour dù dài, dù ngắn cũng chỉ có một hướng-dẫn-viên du-lịch đi với
mình từ đầu đến cuối (đôi khi họ có thêm hướng-dẫn-viên người
địa-phương). Nhóm du-khách đi tour với mình cũng không thay-đổi. Ở New
Zealand 8 ngày, chúng tôi đi với hơn mười hãng du-lịch khác nhau,
hướng-dẫn-viên du-lịch cũng như bạn du-khách cũng thay-đổi theo mỗi
tour. Mặt khác, mua tours ở Australia và New Zealand phải đọc kỹ
chi-tiết vì nhiều tours rẻ họ cắm trại (camping) chứ không ở khách-sạn
hoặc mình phải lái xe lấy.

Anh Nguyễn Trường Phát, Hội QGHC Miền Đông Hoa Kỳ, nhận cờ Luân Lưu từ Anh Nhan Tử Hà
Cảm tạ Chúa, cám ơn Thượng-đế đã cho
chúng con sống đến tuổi này lại cho chúng con còn sức-khỏe để đi đây đi
đó. Cám ơn Anh Nhan Tử Hà, Anh Lê Văn Thái, Anh David Ngô Văn Đượm và
các ACE trong Ban Tổ-chức HNLK 2018, các ca-sĩ, nhạc-sĩ, MCs.. đã cho
chúng tôi có cơ-hội gặp mặt nhau; cám ơn Anh Nguyễn Văn Sáu đã như con
thoi chuyển tin từ Úc đến chúng tôi. Cám ơn tất cả ACE/QGHC ở Úc đã
đón-tiếp chúng tôi rất niềm-nở, thân-thiện, chan-hòa tình-nghĩa ACE đồng
song, đồng môn. Hẹn gặp lại các ACE trong kỳ HNLK 2019 ở Washington.
Tuổi chúng ta đều đã 7, 8 bó; hãy tận-dụng những ngày còn lại ít-ỏi của
chúng ta để gặp mặt nhau, hàn-huyên, thăm hỏi nhau. Tôi đi Úc về trễ nên
giữa Tháng 12 mà vẫn chưa viết xong bài này thì vừa nghe tin Chị Trần
Thiện Tích mới qua đời ở Úc. Khi sang Úc, vợ chồng tôi có ghé thăm Chị
vì Chị không đi họp HNLK. Anh Tích học với tôi ở Cao-học 2, Chị Mỹ Nam
học với tôi ở Đại-học Văn-khoa Sài-Gòn. Vừa được gặp lại Chị thì nay Chị
đã ra đi. Mong xin Chị an-nghỉ, quyên đi cõi đời vô thường này và
nguyện cầu hương-linh Chị Mỹ Nam, Pháp-danh Tâm Tường sớm tiêu-diêu Miền
Vĩnh Hằng.
Đặng-Quốc-Tuấn
CH 2 / ĐS 10