NHƯNG ĐỌC TỚI PHẦN CUỐI CÓ ĐỀ CẬP ĐẾN TÊN
TRƯƠNG PHÚ THỨ (TÊN THẬT LÀ TRƯƠNG VĨNH QUANG- KHÓA ĐS 15 QGHC) NHƯ LÀ 1 NHÂN
VẬT RẤT THÂN CẬN RUỘT THỊT VỚI BÀ NHU - SỰ THẬT TÊN TRƯƠNG VĨNH QUANG KHÔNG
PHẢI LUẬT SƯ, LẬT SƯ GÌ CẢ- HẮN CHỈ LÀ 1 TÊN CÓ BẰNG BUSINESS VÀ LÀM DỊCH VỤ
KHAI THUẾ KIẾM ĂN TẠI SEATTLE- HẮN TA KHÔNG PHẢI LÀ
NGƯỜI BIÊN HÒA VÀ CHẲNG CÓ CHÚT QUAN HỆ GÌ VỚI GIA ĐÌNH BÀ NHU CẢ- HẮN
LÀ 1 TÊN BÀI BẠC TỪ THỜI CÒN SINH VIÊN - NÊN TỰ KHOE LÀ THÂN NHÂN CỦA BÀ NHU
CHỈ LÀ LÁO KHÓET- MÚA MỎ NƠI KHÔNG CÓ AI BIẾT HẮN LÀ
AI THÔI !!! KHÔNG TIN CỨ HỎI CỰU QGHC KHÓA 15 THÌ RÕ./-BỉnhBút/GBY
====================
Parent Category: ROOT Category: Thư Viện
Nguyễn Kim Lộc
(Chicago, Illinois. USA)
Ngày 01-11-1963 đánh
dấu sự sụp đổ của nền Đệ Nhất Cộng Hoà Miền Nam, do Tướng Dương Văn Minh,
với tư cách đứng mũi chịu sào, danh xưng Chủ Tịch Hội Đồng Tướng Lãnh Quân Lực
Việt Nam Cộng Hoà với sự hỗ trợ đắc lực của Tướng Trần Thiện Khiêm, người được
mô tả là linh hồn của cuộc đảo chánh, từ hiến kế, sắp xếp, liên lạc thuyết phục
các tướng lãnh trong quân đội và gần như toàn quyền quyết định việc lật đổ chế
độ Ngô Đình Diệm, để mở trang sử mới… cũng là ngày bà Ngô Đình Nhu, khuê danh
Trần Lệ Xuân, vỡ mộng chính trường…
Dư luận cho rằng, lý
do sụp đổ của nền Đệ Nhất Cộng Hoà là do chính sách gia đình trị và việc đàn áp
Phật Giáo của chính quyền đương thời và sự thiếu sáng suốt - cả nể của Tổng
Thống Ngô Đình Diệm, để thân tộc chen sâu vào lãnh vực chính trị, và hoạt động
kinh tài… “Đức cha Thục đứng trong bóng tối điều khiển người thân tín khai thác
lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách Albert Portail.v.v...; ông Ngô
Đình Cẩn, tự phong là Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung về mặt an ninh và đoàn thể,
đồng thời trực tiếp điều khiển Đoàn Công Tác Đặc biệt do Dương Văn Hiếu phụ
trách”, nên Quân Đội phải lãnh sứ mạng đảo chánh để bảo đảm quyền tự do dân chủ
cho nhân dân miền Nam Việt Nam, nhưng ít ai biết được nguyên nhân sâu xa của
cuộc chính biến lịch sử nầy …Nhờ những tài liệu được giải mật của Mỹ và hồi ký
của những người tham gia cuộc đảo chánh nói trên, người dân Việt Nam đã hiểu rõ
nguyên nhân sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hoà. Một lý do rất đơn giản - Tổng Thống
Ngô Đình Diệm không đồng ý cho Hoa Kỳ đổ quân Mỹ ào ạt vào miền Nam Việt Nam,
vì sợ dân chúng hiểu lầm miền Nam Việt Nam đã bị Mỹ chiếm, làm ảnh hưởng đến
chính nghĩa và tinh thần của người Việt quốc gia chống Cộng Sản; tạo cái cớ cho
Cộng Sản Miền Bắc tuyên truyền xuyên tạc, khơi dậy lòng căm thù trong dân chúng
đối với Mỹ và chính quyền Đệ Nhất Cộng Hoà, hầu lôi kéo quần chúng về phía Cộng
Sản, đồng thời kêu gọi dân chúng nổi dậy “đánh Mỹ cứu nước”, “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho Nguỵ nhào”.- Cũng khoảng thời gian đó, cơ quan Tình Báo Mỹ phát hiện
ông Ngô Đình Nhu đi đêm với Cộng Sản Bắc Việt ở một khu rừng thuộc tỉnh Bình
Tuy để tìm cách giải quyết vấn đề nội bộ Việt Nam; chuyện nầy không biết có
phải là một đòn chính trị nhằm thăm dò phản ứng của Hoa Kỳ và tìm hiểu đường
hướng chủ trương của Cộng Sản Bắc Việt hay không (?), vẫn làm cho chánh quyền
Mỹ khó chịu, và sự việc nầy, hẳn nhiên là trật với đường lối và kế hoạch giải
trừ khối Cộng Sản Quốc Tế của Mỹ; nên CIA Mỹ (nhân vật nổi bật là Lucien Conein)
nhận lãnh trách nhiệm liên lạc thuyết phục hoặc mua chuộc thành phần tướng lãnh
Việt Nam Cộng Hoà dưới nhiều hình thức và đạo diễn cuộc đảo chánh chế độ Ngô
Đình Diệm.Lịch Sử đã sang trang, chắc có người thầm trách tôi khơi lại làm gì,
khi hình ảnh ngày 01-11-1963 đã phai mờ dưới bao lớp bụi thời gian, đã hơn bốn
mươi bốn năm thắm thoát trôi qua, hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị Quân
Nhân Cách Mạng bắn chết trên thiết vận xa M113, trên đường từ nhà thờ Cha Tam
về Bộ Tổng Tham Mưu.Thi thể được an táng vào lúc giữa đêm trong khuông viên
trại Trần Hưng Đạo, cạnh chùa Ấn Quốc, trước sự chứng kiến của một linh mục
người Pháp, ông bà Trần Trung Dung (một thời là Bộ Trưởng, Phụ Tá Quốc Phòng
thời Đệ Nhất Cộng Hoà, và bà Dung gọi ông Diệm bằng cậu ruột) và Trung Tá
Nguyễn Văn Luông (Trưởng Ban Mai Táng). Đến năm 1964, hai quan tài của ông Diệm
và ông Nhu được di dời đến nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi (Sài Gòn), chôn một cách sơ
sài , không xây mộ và cũng chẳng dựng bia….và đến sau ngày 30-4-1975, hài cốt của
hai ông Diệm và Nhu, một lần nữa, được cải táng tại nghĩa trang Lái Thiêu thuộc
tỉnh Bình Dương. Và Ngô Đình Cẩn cũng đã bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thời
Đại Tướng Nguyễn Khánh xử tử lúc 6 giờ 30 sáng ngày 09-5-1964 tại sân sau khám
Chí Hoà Sài Gòn, trước sự chứng kiến của Luật Sư Biện Hộ Võ Văn Quang - ông
Quang bùi ngùi vì việc biện hộ không mang lại kết quả… và chỉ xin được cặp kính
còn một tròng của người tử tù, đem về làm kỷ niệm ...
Tất cả những người vừa
kể đã yên mồ… nhưng còn một phụ nữ Việt Nam đáng thương hơn là đáng trách, đáng
phục hơn là đáng khinh, đó là Bà Ngô Đình Nhu khuê danh Trần Lệ Xuân. Bà có một
phần đời vươn đến đỉnh cao quyền lực, với quyết tâm chống Cộng Sản và xây dựng
tốt đẹp xã hội miền Nam Việt Nam trong tự do, dân chủ và công bằng, nhưng ước
vọng đã không thành….
và nửa cuộc đời còn lại sống lưu vong trong cảnh cô đơn, thầm lặng, vinh diệu ở
Châu Âu.Trở về quá khứ một chút...Ngày 10-9-1963, Bà Nhu hướng dẫn một phái
đoàn Dân Biểu Việt Nam đi dự Hội Nghị Quốc Tế Nghị Sĩ tại Nam Tư, đồng thời
lãnh trách nhiệm giải độc dư luận ở Hoa Kỳ và một số nước ở Âu Châu về tình
hình Phật Giáo và chính trị Việt Nam, thì một biến cố quan trọng xảy ra - chế
độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà bị lật đổ. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô
Đình Nhu bị sát hại vào ngày 02-11-1963, trong khi bà Nhu và cô con gái Ngô
Đình Lệ Thuỷ đang ở tại khách sạn Wilshire thuộc Beverly Hill, Los Angeles,
California, Hoa Kỳ. Bà Nhu đã bàng hoàng khi nghe tin vừa kể.
Ngày 15-11-1963, bà
Nhu và con gái rời Mỹ đi Roma (Ý), sau khi tuyên bố: “Tôi không thể cư ngụ ở
Mỹ, vì lý do đơn giản chính phủ của họ đã đâm sau lưng tôi”.Vào năm 1964, bà Ngô Đình Nhu đã một lần xin về thăm lại
quê hương Việt Nam để lo mồ mả cho chồng, ông Ngô Đình Nhu và anh chồng là cố
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhưng bị cấp lãnh đạo nền Đệ Nhị Cộng Hoà bác đơn
(?)… Có quê hương, mà vì hoàn cảnh phải bỏ đi tỵ nạn ở xứ người là một
điều đau khổ, lại bị từ chối không cho về thăm quê hương lại càng đau khổ hơn,
nhất là đối những người có tuổi, càng về già càng da diết nhớ quê hương, càng
nhớ nhiều về quá khứ, cội nguồn, tổ tiên, dân tộc…
Tôi chẳng bà con họ
hàng gì với bà Trần Lệ Xuân, chỉ biết thấp thoáng bà có họ hàng với ngôi nhà Từ
Đường Họ Trần ở góc đường Quang Trung và Phan Châu Trinh Biên Hoà. Ngôi nhà nầy
do thân tộc của bà Trần Lệ Xuân, xây cất từ đời ông cố của bà Nhu là ông Trần
Văn Tứ, tiếp đó ông nội của bà Nhu là ông Trần Văn Thông từng là Tổng Đốc Nam
Định thời xa xưa, là người nguyên quán tỉnh Biên Hoà…
Và nhân dịp đọc được
nhiều trang báo đề cập đến Bà là một phụ nữ tân tiến, tài ba, dám dấn thân hoạt
động chính trị, hơn hẳn nhiều nghị sĩ và dân biểu thời Đệ Nhất Cộng Hoà, với
tấm lòng quyết tâm chống Cộng Sản và xây dựng xã hội miền Nam Việt Nam, nhưng
giấc mộng của Bà đã tan theo khói súng cuộc đảo chánh 01-11-63, do một nhóm
tướng lãnh chủ trương, và bà đã phải sống lưu vong nơi hải ngoại gần năm mươi
năm; bà an phận trong cuộc đời goá bụa, giữ tròn tiết hạnh đối với chồng và cố
gắng nuôi các con ăn học thành tài, có địa vị xã hội cao nơi xứ người… khiến
cho tôi vô cùng cảm kích, ngưỡng mộ và kính trọng Bà.
Bà Ngô Đình Nhu là một
phụ nữ có tài, nhưng tài nghệ của bà không thể nào so sánh với hai Bà Trưng
phất cờ khởi nghĩa, đánh đuổi Tô Định về Tàu, giành độc lập, xưng vương năm 40,
đóng đô ở Mê Linh…và sau đó bị Mã Viện đánh bại, nên hai Bà trầm mình xuống
sông Hát Giang mà tự tử vào năm 43; cũng không thể so sánh với Bà Triệu khởi
nghĩa năm 248 tại quận Cửu Chân đánh thắng quân Tàu nhiều trận, nhưng sau cùng
thế yếu, Bà tự tử tại làng Bồ Điền (Thanh Hoá) …nhưng
có một phụ nữ Việt Nam nào có bản lĩnh hơn Bà Nhu, trong lịch sử cận đại, dám
dấn thân vào lãnh vực chánh trị, phụ chồng (ông Ngô Đình Nhu) và giúp anh chồng
(ông Ngô Đình Diệm) trong việc cùng lo bảo vệ chế độ Cộng Hoà Miền Nam, chống
lại Cộng Sản Miền Bắc hay không? - Xin thưa rằng không. Tôi không có ý
nói bà Trần Lệ Xuân là người học cao…. Bà chỉ học đến bậc Tú Tài Pháp, nhưng bà
rất thông minh, lịch lãm, dám tham gia hoạt động chính trị; là vợ của một quân
sư lỗi lạc và thường thủ vai Đệ Nhất Phu Nhân thời Đệ Nhất Cộng Hoà, mỗi khi có
cuộc tiếp tân, chào đón các mệnh phụ phu nhân của nhiều quốc gia trên thế giới
đến thăm viếng Việt Nam.Ngoài các công việc vừa kể, bà Ngô Đình Nhu còn đãm
trách nhiều chức vụ quan trọng khác…* Dân Biểu Quốc Hội Đệ Nhất Cộng Hoà (Đơn
vị quận Đức Hoà/Long An), Bà mạnh dạn đề nghị chính phủ đóng cửa hai sòng bạc
Kim Chung (Sài gòn) và Đại Thế Giới (Chợ Lớn) do lực lương Bình Xuyên-Bảy Viễn
đỡ đầu và khai thác, vì nhận thấy nơi đây là nguồn gốc gây ra tệ đoan xã hội;
đồng thời đề nghị đóng cửa thanh lâu “Bình Khang” ở ngã ba Vườn Lài (Sài Gòn),
nơi mà người phụ nữ bị khinh khi nhất, bị người đời mỉa mai làm nghề bán trôn
nuôi miệng…* Thủ Lãnh Thanh Nữ Cộng Hoà, trong ý hướng nâng cao vai trò phụ nữ,
tạo điều kiện cho người phụ nữ dự phần bảo vệ quốc gia, Bà gây ý thức “giặc đến
nhà đàn bà phải đánh”. Bà làm sống lại tinh thần Trưng Trắc Trưng Nhị: “Bà
Trưng quê ở Phong ChâuGiận người tham bạo thù chồng chẳng quênChị em nặng một
lời nguyềnPhất cờ nương tử thay quyền tướng quân….Hồng quần nhẹ bước chinh yên.
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên Thành Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng
một triều đình nước ta”.
Bà làm sống lại tinh thần Triệu Trinh Nương:
“Tôi chỉ muốn cưỡi có
gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển đông, đánh đuổi quân Ngô,
giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho
người”
Để mẹ gánh nước rửa
bành ông voi
Có bà Triệu Tướng cưỡi
voi đánh cồng
Têm trầu cánh kiếm cho
chồng ra quân”
“Tùng Sơn nắng quyện mây trời
Dấu chân Bà triệu rạng ngời sử xanh”
* Là Phu Nhân của Cố
Vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu, nhưng Bà và thường mặc nhiên thủ vai Đệ Nhất Phu
Nhân thời Đệ Nhất Cộng Hoà trong công tác ngoại giao quốc tế, tiếp đón các nữ
chính khách của nhiều nước trên thế giới, đến viếng nước Việt Nam…do đó, giá
trị và tư cách của Bà được nâng cao Bà luôn làm tròn nhiệm vụ được giao phó.
* Chủ Tịch Phong Trào
Phụ Nữ Liên Đới Xã Hội. Bà bênh vực quyền lợi của người phụ nữ và tạo cơ hội
cho người phụ nữ tham gia công tác xã hội….vì Bà hiểu rõ thân phận của người
phụ nữ Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử, luôn bị coi thường, tháng ngày chỉ
quanh quẩn trong phạm vi gia đình trách nhiệm nuôi con, lo việc bếp nút và
thường bị người chồng chèn ép về nhiều mặt…Bà đã mạnh dạn đề nghị Quốc Hội ban
hành Luật Gia Đình (1958) ngầm xoá bỏ cảnh trai năm thê bảy thiếp, để bảo đãm
hạnh phúc gia đình một vợ một chồng; Bà muốn làm một cuộc cách mạng, nâng cao
vai trò phụ nữ Việt Nam, xoá hẳn câu “Nhất Nam Viết Hữu, Thập Nữ Viết Vô”,
trọng nam khinh nữ, một quan niệm sai lầm do ảnh hưởng tập quán nước Tàu đã lỗi
thời, mà vẫn còn một thiểu số người còn bám níu. Bà kêu gọi phu nhân các vị
tướng tá và các công chức cao cấp tham gia công tác xã hội, thường xuyên thăm
viếng các cô nhi quả phụ và uỷ lạo các thương bịnh binh trong các quân y viện...
Bà chấp nhận đi Mỹ và
Âu Châu, giải độc dư luận về vụ đàn áp Phật Giáo dẫn đến việc Hoà Thượng Thích
Quảng Đức tự thiêu, mà theo bà hiểu… đó là một âm mưu do Cộng Sản chủ trương
với sự đồng loã của CIA Mỹ, nhằm bức tử Hoà Thượng Thích Quảng Đức dưới hình
thức tự thiêu vì đạo pháp, để làm ngọn đuốc giả tạo, đấu tranh cho Phật Giáo
với mục đích khuynh đảo chế độ của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà và Bà sẵn sàng
chấp nhận mọi sự phản đối của nhiều người Mỹ và cũng như một số người Việt Nam
Thật sự, lúc bấy giờ, có một số đông dân chúng, gồm cả nhiều người trí thức rất
ngây thơ về mặt chính trị, nên bị Cộng Sản lừa gạt, dụ dỗ thoát ly vào rừng
hoạt động như Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa, Kiến Trúc Sư Huỳnh Tấn Phát, Luật Sư
Nguyễn Hữu Thọ... và hầu hết các kháng chiến quân miền Nam và sau cùng đều bị
bạc đãi; họ ngậm đắng nuốt cay và thú nhận đã lầm đường… kể cả thi sĩ Vũ Hoàng Chương, sống tại miền Nam tự do, làm giáo sư,
dạy môn Việt Văn, cũng lầm và đã viết bài thơ “Lửa Từ Bi”…. ca ngợi sự tự thiêu
vì đạo pháp của Hoà Thượng Thích Quảng Đức…để rồi sau ngày 30-4-1975, Vũ Hoàng
Chương được Việt Cộng chiếu cố mời vào khám Chí Hoà nghỉ mát đến lúc gần chết mới
được thả về.
LỬA TỪ BI
Kính dâng lên Bồ Tát Quảng Đức
Vũ Hoàng Chương
Lửa, lửa cháy ngất toà sen!
Tám chín phương nhục thể tràn tâm
Hiện thành thơ, quỳ cả xuống
Hai vầng sáng rưng rưng
Đông Tây nhoà lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt-Trời-mới-mọc
Ánh Đạo Vàng phơi phới đang bừng lên, dâng lên
Ô đích thực hôm nay trời có mặt
Giờ là hoàng đạo nguy nga
Muôn vạn khối sân sì vừa mở mắt
Nhìn nhua: tình huynh đệ bao la.Nam mô Đức Phật Di Đà
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
Người rẽ phăng đêm tối đất dầy
Bước ra ngồi nhập định về hướng Tây
Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời tay
Sáu ngã luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên từng nhịp Bánh xe quay
Không khí vặn mình theo,
khóc oà lên nổi gió: Người siêu thăng…
Dông bảo lắng từ đây
Bóng người vượt chín tầng mây
Nhân gian mát rượi bóng cây Bồ Đề.
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
Chổ người nồi: một thiên thu tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nét Từ Bi.
Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?
Ngọc đá cũng thành tro lụa tre dần mục nát
Với thời gian, lê vết máu qua đi
Còn mãi chứ! Còn trái tim Bồ Tát
gội hào quang xuống chốn A Tỳ Ô?
Ngọn lửa huyền vi!
Thế giới ba nghìn, phút giây ngơ ngác
Từ cõi vô minh
Hướng về Cực Lạc
Vần điệu thi nhân chỉ còn là rơm rác
Và cũng chỉ nguyện được là rơm rác
Thơ cháy lên theo lời kinh
Tụng cho nhân loại hoà bình
Trước sau bền vững tình huynh đệ này
Thổn thức nghe lòng Trái ất
Mong thành quả phúc về cây;
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật;
Đồng loại chúng con
nắm tay nhau tràn nước mắt
Tình thương hiện Tháp-Chín-Tầng xây
Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương
(viết tại Sài Gòn ngày 15 tháng 7 năm 1963, để tưởng niệm Hoà Thượng Bồ Tát
Thích Quảng Đức).
Trong khi bà Ngô Đình
Nhu biết chắc vụ tự thiêu Hoà Thượng Thích Quảng Đức là do bàn tay của Cộng Sản
dàn dựng, nên trong các cuộc phỏng vấn trong nước cũng như ở hải ngoại (của báo
New York Times…), bà Nhu đã không ngần ngại phát biểu: "Hoạt động của Phật
Giáo là một hình thức phản bội xấu xa..." hoặc "Vỗ tay hoan nghênh các
vụ tự thiêu, nếu ai có thiếu xăng dầu thì tôi sẽ cho (nguyên văn: I would clap
hands at seeing another monk barbecue show…)". Và còn gọi vụ tự thiêu là
"nướng sư" hoặc "Tôi còn thách mấy ông sư thêm mười lần nữa.
Phương pháp giải quyết vấn đề Phật Giáo là phớt tỉnh, không cần biết tới".
Bà bị nhiều người,
trong số có cả người thân trong gia đình, chê trách Bà đã không tế nhị trong
việc phát ngôn, lời nói mang tính cách chế dầu vào lửa, khiến cho tình hình
chính trị tại miền Nam, vốn rối rắm càng lúc càng rối rắm hơn, nhưng thực tế bà Nhu đã không thể nói khác được vì sự
thật đã bày ra trước mắt….
Chỉ tiếc rằng Bà đã
không nói thẳng ra, vụ Thích Quảng Đức tự thiêu là do âm mưu của Cộng Sản miền
Bắc chỉ thị cho Phật Giáo Quốc Doanh miền Nam, núp dưới danh nghĩa Phật Giáo Ấn
Quang, do Thích Trí Quang lãnh đạo, thực hiện…. Bây giờ mọi người đã rõ việc
“Thích Quảng Đức tự thiêu’’ là do Việt Cộng sắp đặt từ A đến Z, từ chích thuốc
an thần cho đến khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức không còn biết gì nữa, rồi giao
cho tên Trần Quang Thuận chở đến ngã ba đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng
(Sài Gòn), với sự tham gia đắc lực của tên Việt Cộng nằm vùng Nguyễn Công Hoan,
đổ cả thùng xăng lên người Thích Quảng Đức và châm lửa; chuyện rõ ràng như thế
mà Cộng Sản lại tuyên truyền: “Bồ Tát Thích Quảng Đức tự Ngài đã tẩm ướt xăng,
rồi ngồi kiết già nơi giao lộ và cũng tự tay Ngài châm thêm xăng và quẹt lửa
vào người.”
Sau ngày 30-4-1975,
Nguyễn Công Hoan, tên thật là Huỳnh Văn Thạnh, được Việt Cộng đề cử là Dân Biểu
tỉnh Phú Khánh. Nhờ những đoạn phim, ảnh, quay và chụp được… nhân dân Việt Nam
đã thấu hiểu vụ Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu là do âm mưu của Cộng Sản
nhằm bức tử một nhà sư trong mưu đồ chính trị, nhằm gây rối tình hình và khuynh
đảo chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà. Những tấm hình dưới đây đã chứng minh
điều vừa kể.Bây giờ, mọi người đã hiểu rõ hai tiếng “nướng sư” ….của Bà Ngô
Đình Nhu phát biểu trên bốn mươi năm qua, diễn tả rất rõ ràng, chứng minh được
cảnh Hoà Thượng Thích Quảng Đức không phải tự thiêu về đạo pháp mà là một sự
bức tử - cán bộ Cộng Sản đã trút lên người Thích Quảng Đức cả “can” xăng rồi
nhanh tay châm lửa…Mời quí vị đọc bài thơ sau đây...
LỬA TỪ BI HAY OAN NGHIỆT
(Thế Nhân)
Ôi! Ngọn lửa từ bi
Hay khói mùa oan nghiệt?!
Cộng Sản quá độc ác
Tế sống một nhà sư
Nam mô A Di Đà Phật!
Cộng Sản chở Sư đến
Cộng Sản dìu Sư đi
Sư dường không còn biết
Sắp lìa đời từ đây
Nam mô A Di Đà Phật!
Trước cảnh người chứng kiến
Thích Quảng Đức lặng im
Sư ngồi thế toạ thiền
Góc đường Lê Văn Duyệt
Giữa hàng rào cà sa
Lẫn màu áo lam già
Của Ấn Quang tà phái
Cảnh dàn dựng cúng dường
Chao ôi! Ác quá chừng
Cộng Sản đổ ‘can’ xăng
Lên khắp người thượng toạ
Cộng Sản mở quẹt châm
Bức tử một vì Tăng
Lửa oán cừu bùng cháy
Cộng Sản truyền thắng lợi
Một ngọn lửa chính trị
Đã hoá kiếp nhà sư
Ống kính đã khắc ghi
Ảnh hình còn lưu lại
Bao Tăng ni đồng loã?
Chứng cảnh dã man nầy!
Ngọn lửa đang bốc cao
Từ Bi hay Oan Nghiệt
Người đời đà nhận biết
Nguồn cội tự Quốc Doanh
Hầu như mọi người đều
nhận ra Phật Giáo Ấn Quang là một tổ chức ngoại vi của Cộng Sản Bắc Việt và tổ
chức nầy biến thành Phật Giáo Quốc Doanh sau ngày 30-4-75, riêng Thượng Toạ
Thích Trí Quang được Bộ Chính Trị Cộng Sản Miền Nam điều động vào bóng tối ngồi
nghỉ ngơi, im hơi lặng tiếng đến ngày hôm nay.
Việc làm kể trên của
bà Ngô Đình Nhu dĩ nhiên có nhiều người Quốc Gia ganh tị tài ba và địa vị, đồng
thời bị Cộng Sản tuyên truyền bóp méo sự thật, cố tình xuyên tạc, phao tin thất
thiệt nhằm làm giãm uy tín của bà …..Theo bài báo có tựa là “Các Tướng Cướp Đội
Lốt Thầy Tu’ của Nguyễn Hạnh Hoài Vy, tác giả cho rằng bà Nhu có buông lời xúc
phạm đến các linh mục và các nhà sư với những câu “Bà Nhu nổi tam bành mà mắng
mấy ông cha là “các tướng cướp” vì sợ rằng thành phần giai cấp tăng lữ mới nầy,
nếu có tham vọng quá đáng, sẽ lấn lướt quyền lực của chồng bà, cũng đang trong
giai đoạn cần củng cố và phát triễn”….chỉ vì bà Nhu đã không tiện nói tách bạch
những ai mà thôi. Theo tôi, lúc bấy giờ, bà Nhu đã biết chắc những người nào
lợi dụng lốt áo thầy tu, nhưng không lo việc tu hành, lại ngấm ngầm dấn thân
làm việc ngoài đời, lo làm chính trị hoặc kinh doanh dưới nhiều hình thức, vô
tình làm cho chế độ mang nhiều tai tiếng…. Bà nói quá tổng quát, kiểu quơ đũa
cả nắm, nên bị nhiều người chỉ trích và bị Cộng Sản lợi dụng xuyên tạc … chứ phải hồi đó bà Nhu cứ nói thẳng ra Thượng Toạ Thích
Trí Quang, hoặc linh mục Phan Khắc Từ thì đúng quá rồi (Sau ngày
30-4-75, Thích Trí Quang và Phan Khắc Từ đã hiện nguyên hình là cán bộ Cộng
Sản) hoặc nói thẳng linh mục Chân Tín (chủ trương tờ báo Đối Diện), hoặc linh
mục Nguyễn Ngọc Lan tác giả quyển “Cho Cây Rừng Còn Xanh Lá”, là những người ăn
cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản thì cũng đúng quá rồi, nhưng Bà quá dè dặt không
nói thẳng ra (sau ngày 30-4-1975, hai ông Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan đã thức
tỉnh thì sự việc đã rồi, nước mất nhà tan, hai ông bị Cộng Sản bạc đãi, và
dường như muốn chuộc lại phần nào lỗi lầm trong quá khứ, hai ông tiếp tục dấn
thân tranh đấu tự do, dân chủ choViệt Nam và ông đã ngậm ngùi mang theo xuống
suối vàng cách đây vài năm, nỗi tức tối vì đã chọn lầm hướng đi….
Sau đây là phần góp
nhặt trong dư luận qua sách báo về những sự khen chê cùng những lời phát biểu
của bà Ngô Đình Nhu:
Những Lời khen Bà Nhu:
1. Trong quyển truyện “Ván Bài Lật Ngữa” của Nguyễn Trương Thiên Lý (tên thật
là Trương Gia Triệu, bí danh Trần Bạch Đằng, một đảng viên Cộng Sản cao cấp,
gốc người miền Tây), theo thân phụ, ông Trương Gia Mãng, lưu lạc lên Biên Hoà
làm quản lý cho đồn điền Sở Quít của cố trưởng toà Trần Quang Nghiêm (thân phụ
của Trần Quang Nghĩa, một sĩ quan Không Quân Thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà),
tác giả Nguyễn Trương Thiên Lý đã có lời khen “Bà Nhu rất sắc sảo về chính
trị”.
2. Trong bài phỏng vấn ông Quách Tòng Đức (cựu Đổng Lý Văn Phòng cho Tổng Thống
Ngô Đình Diệm) do ông Lâm Lễ Trinh thực hiện, có đoạn: “Ông cụ có vẻ nể và ủng
hộ bà Nhu” trong vụ tổ chức Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới và vận động quốc hội ban
hành Bộ Luật Gia Đình cấm ly dị. Tổng thống cho rằng bà Nhu hành động như vậy
là giúp cải tổ xã hội….” “Ngoài chức vụ Dân Biểu Quốc hội, bà Nhu còn là Chủ
Tịch Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới. Khi tiếp quốc khách, bà Nhu còn đóng vai trò
Đệ Nhất Phu Nhân, vì Tổng Thống độc thân”
3. Trong bài viết “Nhớ về Ông bà Ngô Đình Nhu”, Giáo Sư Nguyễn Văn Lục viết:
“Bà thì vừa xinh, vừa trẻ đẹp, giữ gìn gia phong nề nếp. Thêm một lần nữa, tôi
có một ấn tượng rất tốt đẹp về bà Nhu. Theo cha Phước khi đến thăm ông Nhu cùng
với vài người khác ngồi ở phòng khách. Chủ khách đàm đạo trong khi bà Nhu không
dám ngồi mà chỉ đứng chắp tay vào nhau để trước bụng. Đấy là cử chỉ của những
gia đình có lễ giáo nghiêm ngặt. Tôi không nói thêm cho bà cũng không nói bớt
cho. Nghe sao thì nói lại…
Mà câu chuyện này tôi nghe khi còn ở ngoài Bắc trước khi có cuộc di cư. Cung
cách ấy, cử chỉ như thế, giáo dục nghiêm ngặt, lễ giáo như thế. Sau này có điều
gì đi nữa. Làm sao tôi có thể nghĩ xấu cho người phụ nữ này được. Ai nghĩ xấu
thì đó là việc của họ. Còn tôi thì không. Ai ghét thì cứ việc. Còn tôi không là
không. Nói xấu cho một người thì dễ.. Kính trọng được một người thì mới là điều
khó”.Vẫn trong bài viết của Giáo Sư Nguyễn Văn Lục: “Theo lời kể của anh Trần
Cao Lĩnh, ông đã hết lời đối với gia đình ông Diệm và đặc biệt là đối với bà
Nhu. Bà Nhu là hạng người phụ nữ chẳng những có ăn học, có giáo dục. Cử chỉ
phong cách quý phái, chừng mực lễ độ trong cư xử. Không phải loại người bờm
xơm, cớt nhả, dâm đãng, mất nết như những lời bịa đặt của dư luận ác ý”. “Tại
Huế, chỉ các đàn ông như các ông Diệm, ông Nhu, Giám Mục Ngô Đình Thục mới được
phép ở nhà trên dùng cơm. Bà Nhu chẳng những sợ và khép nép với ông Diệm mà còn
cả với Giám Mục Thục. Theo nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bà Nhu không dám tự
tiện vào phòng ông Diệm”. “Nhưng phỏng được bao nhiêu người có cơ hội tiếp xúc
với bà Nhu, hiểu bà Nhu như ông Trần Cao Lĩnh để rồi kính trọng nhân cách con
người bà? Phải thú thực không có bao nhiêu. Không mấy ai biết bà, nhưng ghét
bà, khinh miệt bà thì gần như tất cả. Đàn ông ghét đã đành, đàn bà cũng ghét
theo. Ghét ngay từ những năm 1955 khi chưa có Quốc Hội, chưa có Hội Phụ Nữ Liên
Đới hay Phụ Nữ Bán Quân sự. Dưới mắt đám đông, bà Nhu chỉ là một người phụ nữ
“mất nết”, ăn mặc hở hang, lố lăng với chiếc áo dài kiểu mới. Phụ nữ chê bai tư
cách của bà trong chiếc áo dài kiểu mới, nhưng không ai bảo ai, giới nữ sinh
đến loại mệnh phụ phu nhân đều ăn mặc theo kiểu áo dài đó.” “Đến độ vào năm
1955, ông Diệm chép miệng than thở: Tội nghiệp, Bà Nhu có làm gì đâu? Không làm
cũng chết chỉ vì bà là một người đàn bà. Lại thường nói quá mạnh, cứng rắn
trong quan điểm, lập trường, không nhường nhịn. Đàn ông nào nó chịu được.”
4. Tờ Nữu Ước Thời Báo viết: “Chính nhân dân Việt Nam phải tự giải quyết cuộc
khủng hoảng tại nước họ. Vai trò của Hoa Kỳ là làm cho họ hiểu rằng cuộc viện
trợ và ủng hộ của Hoa Kỳ là không thể kéo dài vô thời hạn. Chúng tôi hy vọng
rằng “quan điểm ấy của người Mỹ” sẽ được trình bày rõ ràng với bà Nhu, và bà
trở về Sài Gòn với ý niệm rõ ràng đó, thì cuộc viếng thăm của bà tại Hoa Kỳ
không phải là không hữu ích” “Trong ba tuần lưu lại Hoa Kỳ, bà Ngô đình Nhu đã
đi thăm 12 thành phố, tham gia 17 chương trình phát thanh, đọc 17 bài diễn
thuyết, dự 15 đại tiệc... và bà đã qua kỳ thi sơ khảo trước báo chí Hoa Kỳ và
đã đậu ưu hạng. Hôm thứ Tư vừa qua, bà Ngô Đình Nhu tố cáo một số cơ quan thông
tấn xã Hoa Kỳ tại Việt Nam đã liên can đến một vụ âm mưu lật đổ Chính Phủ Việt
Nam”.
Những Lời Chê Bà Nhu:
1. Có những kẻ xấu miệng lại cho rằng Bộ Luật Gia Đình nhằm mục tiêu riêng:
Ngăn Luật Sư Nguyễn Hữu Châu ly dị với bà Trần Lệ Chi, chị của bà Nhu. Theo
tôi, đây chỉ là sự đoán mò với dụng ý xuyên tạc.
2. Trong bài “Nhớ Về Ông Bà Ngô Đình Nhu”, ông Nguyễn Văn Lục viết: “Tôi biết
rõ. Vì chính tôi cũng chẳng thể nào quên được câu nói phạm thượng và xấc xược
của bà khi Hoà Thượng Quảng Đức bị tự thiêu” “Đối với tôi, sau 1963, cái gì
cũng trở thành đầu đề để đàm tiếu gia đình ông Nhu. Có cần nhắc lại những điều
viết bất xứng về bà Nhu của những người như Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Đắc Xuân
không?” Và cũng trong bài viết nầy, có đoạn “Suốt tuần qua báo chí Sài Gòn đăng
nhiều phóng sự điều tra về những bí mật trong Dinh Gia Long, đặc biệt là những
hình ảnh sex mà họ gán cho là của bà Trần Lệ Xuân….Các sĩ quan chỉ cho chúng
tôi hệ thống kính soi được lắp kính bốn mặt tường và họ giải thích rằng bà Trần
Lệ Xuân lắp hệ thống kính như thế để mọi hoạt động thân thể riêng tư của bà
trong phòng nầy bà có thể ngắm được từ nhiều phía, nhưng kỳ thực đây là những
lời hoàn toàn bịa đặt ….” Và ông Nguyên Văn Lục có ghi đoạn: “Theo ông Ngô Bảo
(nhà thầu tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật bên Pháp) có trách nhiệm trang trí tư dinh
của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho người viết hay: phòng ăn Dinh Gia Long được
trang trí với tranh sơn mài Thành Lễ. Riêng phòng bà Nhu chỉ treo độc nhất một
bức ảnh bán thân của bà Nhu, do hoạ sĩ Nguyễn Khoa Toàn vẽ (1). Bức tranh vẽ bà
Nhu mặc áo cánh lụa, có hơi rõ nét nổi lên phần ngực phía trong làn áo. Chỉ có
vậy. Người viết hỏi thêm, có thấy các bức tường chung quanh phòng bà Nhu đều có
gương phản chiếu không? Ông Ngô Bảo cho biết: Làm gì có chuyện đó. Tường thường
như mọi bức tường nhà khác”
3. Cũng trong bài viết của Giáo Sư Nguyễn Văn Lục, ông trình bày:“Tôi đã nói
chuyện với Sĩ Quan Tuỳ Viên Lê Châu Lộc, sau này là Nghị Sĩ Lê Châu Lộc. Ông
Lộc với bản chất trung thực cho biết, ông biết gì nói nấy, có nói có, không nói
không. Ông cho biết 06 năm làm sĩ quan tuỳ viên cho “ông cụ”, kề cận ông cụ
ngày đêm. Trong 06 năm đó chỉ gặp bà Nhu trên dưới 10 lần, vì hai ông bà ở khu
bên kia Dinh Tổng Thống, ít có tiếp xúc qua lại. Ông không mấy thích bà Nhu vì
giọng nói của bà Nhu lai Bắc, lai Trung và tính nết tỏ ra cao ngạo. Nhưng đối
với Tổng Thống Diệm thì bà sợ và cử chỉ e dè, khép nép. Không có cái cảnh muốn
ra vào văn phòng ông Diệm lúc nào thì vào. Bà là người có phong cách, lịch sự
và đàng hoàng”.
4. Nhiều người chỉ trích bà ỷ lại, là phu nhân của cố vấn chính trị Ngô Đình
Nhu và thường thủ vai Đệ Nhất Phu Nhân, nên chen quá sâu vào lãnh vực chính
trị, để phải mang tiếng là “Sau rèm chấp chính”; nói bà có cử chỉ xem thường
một số viên chức cao cấp và tướng lãnh, nên gây cho họ bất mãn về cung cách ấy
của bà, và nhất là khi phát biểu, bà không uyển chuyển lựa lời, cứ nói thẳng
thừng nên dễ gây mếch lòng nhiều người cho rằng bà nói năng hàm hồ và từ đó đâm
ra thù ghét sau lưng bà….
Những Lời Phát Biểu
của bà Nhu:
1. Trong bài viết về “Cuộc Đời Thanh Nga” đăng trên báo Người Việt Online có
đoạn: “Bà nói, hiện nay nam nữ đã bình quyền, phụ nữ không còn phải chịu cảnh
tối ngày chỉ lẩn quẩn trong gia đình, ẩn núp trong phòng the mà có thể tham gia
bất cứ lãnh vực nào ngoài xã hội, kể cả chính trị mà hầu như xưa giờ chỉ dành cho
nam nhân”.…
Luật Gia Đình đã phổ biến nhưng còn rất nhiều phụ nữ vẫn chưa biết, nên vẫn còn
thiệt thòi. Bà nhấn mạnh, điều khoản trong Luật Gia đình đã bỏ chế độ đa thê
lỗi thời, có từ thời thực dân, phong kiến đã hạ thấp nhân phẩm người phụ nữ.”
2. Trong diễn văn ngày 03-8-63, khai mạc Khoá Phu Nữ Bán Quân Sự tại Toà Đô
Chính Sài Gòn, với nội dung có lời lẽ vu khống, mạ lỵ và hăm doạ Phật Giáo,
gián tiếp tố cáo chính quyền Mỹ đe doạ và bắt chẹt chính quyền Miền Nam và cố
tình bịt miệng Bà. Bà kêu gọi hãy phớt lờ các cuộc đấu tranh của Phật giáo và
chớ quan tâm đến vụ Hoà Thượng Thích Quảng Đức, vì theo Bà, đó là âm mưu của
Việt Cộng “nướng” sư ngày 11-6-63, nhằm vào việc quấy rối, khuynh đảo chế độ
Việt Nam Cộng Hoà.
Bài diễn văn của bà Nhu đã gây ra một loạt phản ứng và tự thiêu ở các nơi khác.
”Ngày 15-11-1963, bà và con gái đã rời khỏi Los Angeles sau khi tức tối tuyên
bố: “Tôi không thể cư ngụ ở Mỹ, vì lý do đơn giản chính phủ của họ đã đâm sau
lưng tôi”.
3. Trong những ngày đi giải độc dư luận tại nước Mỹ bà Nhu tuyên bố “Nếu có một
âm mưu lật đổ như thế, tôi có thể đoán chắc với quý vị là âm mưu ấy sẽ thất
bại”.
4. Trong bài viết về “Bà Ngô Đình Nhu” của tác giả Trương Phú Thứ có đoạn:
“Nhiều người nói bà Nhu căm thù Mỹ lắm vì những sai lầm trong chính trị đối với
Việt Nam và nhất là đối với Đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam. Vào những ngày tháng
cuối năm 1963, cả thế giới kinh ngạc nghe và nhìn bà Nhu mạt sát nước Mỹ và
những lãnh đạo của siêu cường này ở tại một địa điểm chỉ cách Toà Bạch Ốc một
quãng đường.”
Tin Đồn, Xuyên Tạc Ác
Ý:
1. Trong bài phỏng vấn nhà văn Vĩnh Phúc (VP) của nhà văn Nguyễn Văn Lục (NVL),
đăng trên Đàn Chim Việt Online tháng 3-2006 có đoạn: “Chẳng hạn có đám cháy ở
khu Khánh Hội, người ta đồn bà Nhu cho đốt để bán tôn của bà. Cái gì cũng của
bà Nhu, xe buýt bà Nhu, bột ngọt bà Nhu, hãng taxi bà Nhu, cây xăng bà Nhu, bất
động sản khắp nơi của bà Nhu, chỗ nào cũng có người mập mờ nhận là Cần Lao…
Thấy nó vô lý, nhưng làm sao kiểm chứng được. Tin đồn cứ thế loang ra”.
NVL: Tôi có cảm tưởng
ông có vẻ ghét, khinh thường bà Nhu về những ngôn ngữ, cử chỉ xấc xược của bà
ấy. Mặt khác tôi có cảm tưởng ông biện hộ, bênh vực bà ấy. Chẳng hạn trong sách
ông cố tình chứng minh bà ấy không kinh tài, không tham nhũng, hối lộ? Điều đó
có mâu thuẫn không?
VP: Không có gì là mâu
thuẫn cả. Ghét là một chuyện, ghét tính nết, không ưa. Nhưng cho phép tôi dùng
lại chữ của ông đã dùng, tôi phải công bằng với bà ấy. Theo tôi, bà là nạn nhân
bị bôi nhọ một cách thô bạo nhất thời ông Diệm.
2. Trong bài viết của Luật
sư Trương Phú Thứ có đoạn ghi:“Ngay cả một ‘sử gia chân chính” đã từng viết
trong “chính sử” rằng Bà Nhu có mười bảy tỷ Mỹ kim, hai cái thương xá ở Paris
và một đồn điền ở Ba Tây ....”
Ngày 01-11-1963, Đệ
Nhất Cộng Hoà sụp đổ, bà Nhu và cô con gái Ngô Đình Lệ Thuỷ đang ở Mỹ và ngụ
tại khách sạn Wilshire ở Beverly Hill, California, lo việc giải độc dư luận về
tình hình chính trị và Phật Giáo tại Việt Nam… nhưng đến ngày 15-11-1963, bà
rời nước Mỹ đi Roma (Italy), sau khi phát biểu: “Tôi không thể cự ngụ ở Mỹ, vì
lý do đơn giản chính phủ của họ đã đâm sau lưng tôi”.
Khoảng đầu thập niên
90, bà Trần Lệ Xuân đến sống tại vùng Riviera (Pháp) và sau đó không lâu, Bà
Nhu dọn đến ở trong một căn phòng nhỏ trên tầng lầu thứ 11 của toà nhà chung
cư, gần khu kỳ quan tháp Eiffel, thuộc Quận 15, thủ đô Paris (Pháp).
Trên 40 năm sống lưu
vong ở Âu Châu, ở Ý cũng như ở Pháp, Bà sống rất tằn tiện với nguồn thu nhập
rất khiêm nhường từ một căn phòng cho mướn. Bà sống khép kín, cắt đứt mọi quan
hệ với các nhân vật làm chính trị …cũng như hạn chế tiếp xúc với giới truyền
thông báo chí. Trong bài viết của Luật Sư Trương Phú Thứ, có đoạn ghi: “Bà có
thói quen, mỗi sáng, bất kể thời tiết giá buốt cỡ nào, bà vẫn đến nhà thờ….
dâng thánh lễ, phụ giúp công việc trong nhà thờ và đảm trách dạy các lớp Kinh
Thánh và thỉnh thoảng thích làm công việc từ thiện. Bà hầu như không thiết tha
gì đến cuộc đời…. Bà luôn thản nhiên vui sống với nếp sống hiện tại, bà dường
như đã xoá nhoà dĩ vãng và cũng chẳng nghĩ gì về tương lai, mọi thứ Bà phó thác
trong vòng tay của Chúa”. Thời gian sau nầy, kể từ ngày ông Ngô Đình Luyện qua
đời, bà Nhu thay bà Luyện, tổ chức lễ cầu hồn cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm và
ông cô vấn Ngô Đình Nhu hằng năm tại Paris, Pháp.
Năm 2007, Bà đã trên tám
mươi tuổi, dấu vết già nua đã hiện trên gương mặt, nhưng sức khoẻ còn khả quan,
tươi tỉnh, dáng vẻ còn linh hoạt, nhưng chỉ 2 năm sau đó, ở tuổi 85 (2009), sức
khoẻ của bà đột nhiên giảm sút nhanh và bị đau chân, bà không đi đến nhà thờ
nữa, chỉ ở nhà cầu kinh, nên hai người con của Bà (Ngô Đình Trác và Ngô Đình Lệ
Quyên) rước Bà qua Ý Đại Lợi sống chung, để tiện việc chăm sóc cho Bà…Bà Trần
Lệ Xuân đã trút hơi thở cuối cùng tại một bệnh viện ở La Mã, lúc 2 giờ sáng
(giờ La Mã-Ý Đại Lợi), vào ngày Lễ Phục Sinh, Chủ Nhật 24-4-2011. Bà thanh thản
ra đi trong sự quay quần đông đủ các con và các cháu nội ngoại…Hưởng thượng thọ
87 tuổi.Từ sáng ngày 24-4-2011, tôi ghi nhận có rất nhiều điện thư ngập tràn
trên mạng lưới Internet, nhiều người trong cũng như ngoài nước, đã bày tỏ lòng
ngưỡng mộ và thương tiếc bà Ngô Đình Nhu, khuê danh Maria Trần Lệ Xuân với
những lời lẽ trang trọng mến thương và chân thành cầu nguyện hương hồn của Bà
sớm về an nghĩ nơi nước Chúa.
Trước đây, có tin đồn
bà Nhu đang viết Hồi Ký và sẽ cho xuất bản vào một ngày rất gần, nên có rất
nhiều người hiếu kỳ mong được sớm đọc quyển Hồi Ký nầy để tìm hiểu về chuyện
thâm cung bí sử nền Đệ Nhất Cộng Hoà và những cải chính về những tin đồn liên
quan đến cá nhân của Bà, nhưng mãi cho đến khi bà Nhu từ giã cõi đời, quyển hồi
ký vẫn chưa thành hình và có tin từ trong gia đình, bà Nhu không viết hồi ký về
cuộc đời sóng gió của bà mà chỉ viết những cảm nghiệm của Bà về cuộc đời đạo
hạnh và Thiên Chúa…. Tập sách nầy được các con bà Nhu trao cho ông Trương Phú
Thứ, để dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Việt và sẽ cho xuất bản vào năm 2012. Quyển
sách nầy không đề cập đến những hận thù, kể cả nhưng người đã làm đảo chánh,
giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và chồng của bà (ông Ngô Đình Nhu) và chắc chắn
có đoạn bà tuyên bố sẵn sàng tha thứ tất cả “Anh Thứ à, những chuyện người ta
nói xấu về tôi thì tôi không biết. Nhưng nếu họ có nói xấu tôi, thì tôi cũng
tha thứ hết.” Đó là lời của bà Ngô Ðình Nhu đã nói với ông Trương Phú Thứ.Báo
Chí khắp nơi bình phẩm sau khi bà Trần Lệ Xuân qua đời.
1- Lời của Nguyễn Đình
Hoài Việt.. “Bà Ngô Đình Nhu, khuê danh Trần Lệ Xuân, là người đã có công không
ít trong công cuộc giải phóng người phụ nữ Việt Nam khỏi đầu óc phong kiến, chế
độ quân chủ và chủ thuyết Cộng Sản đã chà đạp nhân phẩm của người phụ nữ Việt
Nam xuống tận bùn đen. Bà Ngô Đình Nhu là người phụ nữ đầu tiên đi tiền phong
phất cao ngọn cờ "Phụ Nữ Liên Đới" giải phóng người phụ nữ Việt Nam
thoát khỏi ách đô hộ phong kiến chồng chúa vợ tôi. Chính nhờ bà Ngô Đình Nhu mà
người phụ nữ Việt Nam mới được bình đẳng với nam giới, mới được có nhiều cơ hội
dấn thân đóng góp tài đức công khai trên chính trường Việt Nam trong những thập
kỷ vừa qua”.
2. Ông Bùi Văn Giải,
Chủ Nhiệm Bản Tin Về Bên Mẹ La Vang, số 160 tháng 6-2011, đã viết: “….Bà Ngô
Đình Nhu, một nữ nhân trí thức, không ngu dốt như bọn nhà quê Thị Bình, Thị
Định. Bà là một người vì chính nghĩa Quốc Gia, đứng thẳng trước bọn tiểu nhân
hèn hạ, (ngày đó nhà văn Thương Sinh gọi bọn tiểu nhân này là bọn Cỏ Đuôi Chó),
bọn Cỏ đuôi Chó này bám đít mấy ông linh mục xu thời và thầy chùa quốc doanh.
Thời hỗn loạn đã qua, trắng đen, phải trái, cả thiên hạ biết hết rồi, chúng ta,
những người lương hảo, cách riêng, những tín hữu, hãy thinh lặng cúi đầu, xin
Thượng Đế đoái thương người phụ nữ Việt Nam can đảm này, xin Thiên Chúa ban cho
linh hồn Bà an hưởng trường sinh với Ngài nơi cõi Vĩnh Hằng.”
3. Một người có địa
chỉ Email Lmymy2000@.... sau khi nghe và đọc bài Phỏng Vấn Bà Ngô Đình Nhu (Anh
Ngữ, có lẽ là lần duy nhất, sau 1963), đã viết: “Nghe cuộc phỏng vấn đặc biệt
của bà Ngô Đình Nhu. Hình như sau khi chồng bị giết, bà chỉ cho phép được phỏng
vấn một lần duy nhất này. Bà nói thẳng vào mặt mấy tên chính khách Mỹ đã âm mưu
giết Tổng Thống Diệm và ông Nhu. Lập luận của bà vẫn sắc sảo, lời nói của bà
vẫn đanh thép như thuở nào. Bà xứng đáng là một nữ lưu, cả thế giới phải nể
phục. Sự khinh bỉ bọn chính trị ma đầu vẫn nằm trong ánh mắt và lời nói của bà.
Tiếc thay, vận trời không đi theo ý muốn để giờ này VN vẫn lụn bại, vẫn đau khổ
vì áp bức, bất công”.
4. TTLan Paris, viết
ngày 26-4-2011: “Sáng Chủ Nhật Lễ Phục Sinh, bà Ngô Đình Nhu đã lìa đời. Bà
Maria Trần Lệ Xuân, một tín đồ công giáo, ra đi ngày lễ này thì quả là được ơn
phúc Phục Sinh, cầu nguyện cho hương hồn bà về nước Chúa an nghỉ. Tôi, hậu sinh
và con cái của ‘chế độ cũ’ thì có thể nói là thiên vị. Thôi cũng chịu. Với tôi,
bà Nhu là một Đệ Nhất Phu Nhân sáng giá nhất từ trước tới nay, một phụ nữ Việt
tiêu biểu 3 miền (gốc gác bên Cha người Nam, bên mẹ người Huế, sinh ra và ăn
học tại Hà nội), bà lại là một người thông minh, hoạt bát, đầy nhiệt huyết, lý
chí để chỉnh đốn xã hội miền Nam bấy giờ. Nhưng sự cấp tiến của bà không thức
thời nên bị hiểu nhầm bởi nhiều người và bà cũng bị nhiều người lạm dụng. Chỉ
nên nhớ đến bà như một người đã trải qua một cuộc đời quá sôi nổi, gian truân,
mà bà vẫn giữ được tư cách, phẩm giá của bà và gia đình bà. Xin một phút hoài
niệm đến linh hồn người đã ra đi…”
* * *
Trong bài viết nầy,
tôi xin phép không đề cập đến đời sống tình cảm riêng tư của bà Trần Lệ Xuân,
vì tôi không có những tài liệu xác thật. Tôi không thể dựa vào tin đồn ác ý
hoặc mang tính cách lăng mạ vì ganh tị địa vị hoặc nhằm mục đích chính trị mà
trình bày một cách hàm hồ. Trong thị trường sách báo trong nước, hiện nay có
vài quyển tiểu thuyết viết về bà Trần Lệ Xuân. Các tác giả dựa vào các tin đồn
và thêm thắt quá nhiều hư cấu, nhất là những chuyện bên trong bức màn the của
bà Trần Lệ Xuân, rồi kết luận rằng bà Nhu là một phụ nữ đa tình, lãng mạn và
không chính chuyên, đôi khi dùng cả cái ngàn vàng của người phụ nữ trong mưu
cầu chính trị để củng cố chế độ nhà Ngô. Ngay cả sau khi nghe tin bà Nhu qua
đời, nhiều tờ báo trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam viết những bài mang
tính cách vạch lá tìm sâu, hài tội hơn là khách quan nhận xét, hoặc ngỏ lời
phân ưu hoặc tỏ chút tình cảm “Nghĩa tử nghĩa tận” đối với một người phụ nữ
đáng thương hơn đáng trách.Viết về nhân vật lịch sử, phải viết bằng tâm tình
trong sáng và khách quan, không ẩn tàng màu sắc chính trị, mới mong tránh được
việc nhận xét sai lầm đáng tiếc. Thật không có gì nhục nhã cho bằng những kẻ
uốn cong ngòi bút, cố tình bóp méo sự thật, với giọng điệu tuyên truyền cố hữu
nhằm hạ thấp giá trị của một người đã vĩnh viễn ra đi.
Tôi căn cứ vào phim ảnh và tài liệu báo chí viết về bà Ngô
Đình Nhu trong thời Đệ Nhất Cộng Hoà miền Nam Việt Nam, cùng những ngày tháng
lưu vong của Bà tại Pháp và Ý Đại Lợi, mà viết bài viết nầy.Tôi nhận thấy bà
Ngô Đình Nhu quả là một phụ nữ Việt Nam tuyệt vời, có một không hai thời Đệ
Nhất Cộng Hoà, dám dấn thân hoạt động chính trị, phục vụ cho quê hương và dân
tộc.
Bà là một phụ nữ khôn ngoan, một mẫu người tính tình cương
trực, lịch lãm, dám nói dám làm, rất nhạy bén với thời cuộc, hiểu nhiều âm mưu
thâm độc của Cộng Sản và quyết tâm bảo vệ nền Đệ Nhất Cộng Hoà với kỳ vọng phục
vụ nhân dân miền Nam sống trong tự do no ấm. Khi chồng bà, ông Ngô Đình Nhu, cố
vấn chính trị nền Đệ Nhất Cộng Hoà bị sát hại, Bà mới 39 tuổi, nhan sắc còn mặn
mà, nhưng bà quyết ở vậy, sống tằn tiện, nuôi các con của bà ăn học thành tài,
có địa vị xã hội cao ở Ý Đại Lợi và Bỉ Quốc.
Trong những ngày tháng
lưu vong, Bà ý thức “thời của bà đã qua”, Bà luôn an phận một goá phụ, cắt đứt
mọi liên lạc với những người hoạt động chính trị và giới hạn tối đa việc tiếp
xúc với báo chí nên Bà không bị một điều tiếng gì trong lãnh vực tình cảm cũng
như trong lãnh vực chính trị.Bà không cần cải chính những tin đồn về việc Bà
mang tiền (17 tỷ đô la) của chế độ ra ngoại quốc hoặc những lời bịa đặt bêu xấu
Bà….
Bà giữ im lặng và sống khiêm nhường cho đến lúc Bà qua
đời. Thái độ và cuộc sống của Bà đã chứng minh đâu là sự thật.Bà đã quyết không
trở về Việt Nam, mặc dù Nhà Nước Cộng Sản có lần đánh tiếng “Nếu Bà muồn về thì
cứ về thôi”, nhưng Bà tuyệt nhiên không về để đau lòng chứng kiến quê hương
Việt Nam bị nhuộm đỏ và cảnh dân chúng cơ cực lầm than….
Thái độ của Bà hơn hẳn nhiều người, trong số có ông tướng
Nguyễn Cao Kỳ trở về Việt Nam với cầu mong danh vọng hảo huyền để phải mang
điều nhục nhã, hoặc một số người khác cam tâm bán linh hồn cho quỷ đỏ…..đã bị
hầu hết người Việt yêu chuộng Tự Do trong và ngoài nước chê cười, khinh bỉ.
Tôi rất ngưỡng mộ bà Nhu dùng hai chữ “Nướng Sư” trong
trường hợp Thượng Toạ Thích Quảng Đức bị “bức tử” qua dàn dựng “tự thiêu”. Từ
ngữ “nướng sư” rất xác nghĩa nhưng nhiều người đã không chịu hiểu như vậy mà
ngược lại còn cố tình xuyên tạc, cho rằng bà Nhu “hỗn láo”, “xấc xược” đối với
một vị chân tu. Thật đáng tiếc cho những người kém hiểu biết về Cộng Sản mà cứ
vỗ ngực xưng tên….
Bà Ngô Đình Nhu bị các
đảng phái đối lập và thành phần hoạt động Cộng Sản ngấm ngầm giựt dây, chỉ
trích là không tế nhị trong khi phát biểu trước công chúng, khiến cho nhiều
người phật ý, gây bất lợi trong môi trường chính trị và ngoại giao. Đó chắng
qua là bản tánh bộc trực của bà Nhu; nếu bà Nhu thận trọng hơn, khéo léo hơn về
điểm nầy, thì chắc chắn giá trị cá nhân của Bà sẽ được nâng cao và được nhiều
người mến mộ hơn nữa.
Nói chung, ở đời ai
cũng có khuyết điểm, nhân vô thập toàn, nhưng nếu đem khuyết điểm vừa kể so với
tinh thần phục vụ, cùng những việc làm thiết thực của bà Nhu dành cho xã hội
miền Nam thời Đệ Nhất Cộng Hoà, thì bà Ngô Đình Nhu quả một người phụ nữ đáng
được nhân dân Việt Nam tuyên dương hơn là chê trách. Bà Ngô Đình Nhu quả là một
phụ nữ đoan trang, tiết hạnh, giàu cương nghị. Bà chấp nhận cảnh goá bụa trong
cuộc sống tha hương, tằn tiện nuôi các con của bà ăn học thành tài; ngoài ra,
bà còn có lòng vị tha, xoá bỏ tất cả hận thù đối với những người tham gia đảo
chánh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là anh chồng của bà và chồng bà, ông Ngô
Đình Nhu. Bà tin tưởng mọi việc xảy ra trong cuộc đời đều do bàn tay của Thiên
Chúa sắp đặt, nên Bà luôn thanh thản từng phút giây trong cuộc sống. Việc làm
của bà Nhu đã khiến tôi vô cùng cảm phục.
Bài viết nầy coi như
là nén hương lòng thắp muộn của một người dân xứ Bưởi kính dâng bà Ngô Đình
Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân, cháu cố của ông Trần Văn Tứ, cháu nội của ông Trần
Văn Thông, ….nguyên quán tỉnh Biên Hoà.