============
VẪN CÒN... ẤM ỨC !
Nguyễn Văn Phước, CH8 & ĐS7.
Chuyện cũ đã gần 30 năm thế nhưng mỗi khi
nhớ lại, nhắc lại vẫn thấy nhớ tiếc, bất mãn.
Vào đầu năm 1973, lúc đã 36 tuổi đời, 11
tuổi nghề, tôi trở lại trường theo học Cao
Học khóa 8 ban ngoại giao.
Hồi sinh thời, cố giáo sư Viện Trưởng Nguyễn
Văn Bông từng tranh đấu cho trường Hành
Chánh đào tạo các ngành nhà nước. Ẩn ý chính
trị ? Điều đó không quan trọng. Chỉ biết đây
là một đề nghị hợp lý. Bộ Tư Pháp chống đối
viện lẽ thẩm phán là những người cần kiến
thức chuyên môn luật học. Không biết ý kiến
của Bộ Ngoại Giao thế nào ? Có điều chắc
chắn là họ muốn bảo vệ cái châsse của họ.
Từ trước Bộ Ngoại Giao tuyển người như thế
nào ? Có thời mỗi vị được cử đi làm Đại Sứ
được quyền mang theo một người thân tín để
làm bí thư, một gia sư và một người giúp
việc nhà. Khi Đại Sứ hồi hương, các người
mang theo ở lại rồi dần dần trở thành viên
chức Bộ Ngoại Giao các cấp tùy theo trình độ
và văn bằng. Đặc biệt thời Đệ Nhất Cộng Hòa
một số khoa bản từ nước ngoài được mời về
nước phục vụ. Tóm lại việc tuyển dụng có
tính cách lẻ tẻ dựa vào tiêu chuẩn khả năng
và tín nhiệm. Mãi cho đến thời bác sĩ Trần
Văn Đỗ, bộ Ngoại Giao mới bắt đầu tuyển các
Thạm Vụ Ngoại Giao một cách hệ thống. Bộ đã
mở chừng 4 hay 5 kỳ thi tuyển và thu nhận
khoảng 100 nhân viên. Một số ít Tham Vụ gốc
dân sự rất xuất sắc có thể kể Lưu Tường
Quang từng giữ chức Tổng Thư Ký bộ Ngoại
Giao, Cao Xuân Tứ từng trông coi nhiệm sở
Hòa Lan.
Mãi gần 3 năm sau khi bị Cộng Sản ám sát,
ước nguyện của giáo sư Bông mới thành.
Năm 1972, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm ký Nghị
Định (?) với hai điểm chính sau đây:
1. Học Viện Quốc Gia Hành Chánh
được giao phó tuyển dụng và đào tạo sinh
viên Cao Học gồm các ban:
- Hành Chánh
- Kinh Tế
- Tài Chánh
- Ngoại Giao
- Thẩm Tra Kế Toán
2. Việc xếp hạng ngạch trật:
- Đối với sinh viên thường: Vào ngạch trật có chỉ số 510 ở ngạch liên hệ.- Đối với sinh viên công chức: Thăng một trật và xếp vào ngạch liên hệ có chỉ số tương đương.
Nghị Định được chiếu hội bởi các bộ liên hệ.
Việc thi tuyển vào ban Ngoại Giao ra sao ?
Thi tuyển gồm 2 phần: Viết và Vấn đáp.
- Phần thi viết có bài nghị luận chính trị,
nghị luận tổng quát và bài dịch tiếng Việt
ra tiếng Pháp và Anh.
Đề thi chính trị do Bộ Ngoại Giao đề nghị và
Bộ Ngoại Giao cũng là premier correcteur nữa.
Tôi còn nhớ đề bài nghị luận chính trị:
Hãy tìm hiểu nguyên nhân đưa đến việc xích
lại (rapprochement) giữa Hoa Kỳ và Trung
Quốc. Ảnh hưởng của việc nầy đối với các
Quốc Gia Á Châu ?
Tôi chuẩn bị cho kỳ thi nầy chưa bao giờ kỹ
hơn. Tôi tìm đọc các tạp chí chính trị như
Forreign Affairs revue, Asian studies, Cao
Đẳng Quốc Phòng v.v… Giáo sư Nguyễn Mạnh
Hùng trong một bài đăng ở Nghiên Cứu Hành
Chánh cho rằng Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa
Miền Nam Việt Nam sẽ bị hy sinh sau khi Hoa
Mỹ bắt tay nhau. Tôi cứ thế mà tán rộng ra
cho rằng phen nầy Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam, công cụ của Cộng Sản Hà Nội sẽ đi chỗ
khác chơi để cho hai anh lớn (Việt Nam Cộng
Hòa và Cộng Sản Hà Nội) nói chuyện thẳng với
nhau. Một người bạn tôi lạc quan hơn cho
rằng Bắc Việt sẽ bị xóa tên trên bản đồ và
Việt Nam sẽ thống nhất với sự lãnh đạo của
Miền Nam.
Thật ra ngày nay các bạn đã biết tài liệu
liên quan đến chiến tranh Việt Nam của Mỹ đã
được giải mật cho thấy Đài Loan và Việt Nam
Cộng Hòa bị hy sinh. Mỹ cho rút khỏi Đài
Loan các giàn phóng có đầu đạn nguyên tử.
Còn Việt Nam Cộng Hòa chúng ta đã bị tên
điếm thúi ngoại giao Kissinger bán đứng bằng
hiệp định Paris với những điều khoản thật
phi lý. Sau ngày mất nước chúng ta thấy một
ông già tiều tụy vừa đi vừa lẩm bẩm: Tổ cha
mi thằng Kissinger. Đó là cụ Phạm Văn Nhu,
thầy học cũ của tôi ở trường Khải Định, Huế
và cũng từng là nghị sĩ Liên Hiệp Pháp và
Chủ Tịch Quốc Hội thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Giáo sư Hùng chỉ nói đúng một phần. Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam bị khai tử nhưng không
phải do việc xích lại Hoa Mỹ mà chính bởi
cha đẻ của nó là Cộng Sản Bắc Việt. Xin nhắc
lại đoạn hồi ký “Memoire d’un Việt Cộng” của
Trương Như Tảng, Bộ Trưởng Tư Pháp của cái
gọi là chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam
Việt Nam. Khi ngồi trên khán đài xem duyệt
binh mừng chiến thắng Miền Nam ngày 2 tháng
5 năm 1975 chờ mãi vẫn không thấy đoàn quân
giải phóng bèn hỏi Trường Chinh, Trường
Chinh trả lời cộc lốc: Đã được sát nhập rồi.
Sự ngây thơ của Trương Như Tảng không chỉ có
thế. Người ta còn kể là y còn ký sự vụ lệnh
cho các nhân viên Bộ Tư Pháp chế độ cũ đi
học tập cải tạo nữa.
- Phần vấn đáp giáo sư Nguyễn Ngọc Huy hỏi
những vấn đề chính trị thế giới nóng bỏng
vào thời đó. Bà giáo sư Nguyễn Thị Huệ hỏi
Pháp văn và một giáo sư nữa (quên tên) hỏi
Anh Văn.
Kỳ thi tuyển gay go. Lúc đầu có 20 người
được chọn. Sau vấn đáp chỉ còn lại 10 người
trúng tuyển thực thụ trong 400 người dự thi.
Thành phần giáo sư giảng dạy bao gồm số giáo
sư cơ hữu của trường còn có những nhân viên
cao cấp của Bộ Ngoại Giao nữa. Thành phần
diễn giả ngoại quốc còn phải kể đến các viên
chức sứ quán Mỹ và Thẩm Kế Viện (cour des
comptes) Pháp. Tôi được cử làm liên lạc viên
giữa Trưởng ban Ngoại Giao là giáo sư Nguyễn
Ngọc Huy và Bộ Ngoại Giao. Thỉnh thoảng bà
giáo sư Huệ còn cử tôi đưa đón các giáo sư
khác (professeur-visiter). Chúng tôi quả
thật phấn khởi và thích thú lúc đầu. Càng về
lâu về dài sự hăm hở bớt dần. Gặp giáo sư
Nguyễn Mạnh Hùng, người bạn thân cũ từ thời
trường Luật nay trở thành giáo sư trong buổi
học đầu tiên anh ta ngạc nhiên: C’est un
luxe. Liên tưởng tới cái background của tôi
vào lúc đó: Đang chuẩn bị trình luận án tiến
sĩ luật, có những connections với Phủ Tổng
Thống và các tổ chức đảng phái chính trị.
Anh nghĩ xem chỉ cố gắng mài quần trên ghế
nhà trường hai năm mà tôi được vào Bộ Ngoại
Giao bằng cửa chính với ngạch sứ thần hạng
nhì và sẽ có gần 20 năm trong nghề là
một nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Làm gì có
chuyện sứ thần? Tham vụ đã là may! Tôi cãi
lại: Nghị Định nói rõ mà bạn. Rồi “toi” sẽ
thấy. Bọn ngoại giao chúng nó bảo vệ cái lâu
đài ấy kỹ lắm. À, mà nếu là sứ thần thật
không khéo “moi” cũng bỏ nghề dạy để nhảy
vào đó.
Trong hai năm đi học ấy có quá nhiều biến
chuyển về chính trị, quân sự rất bất lợi cho
Việt Nam Cộng Hòa. Một anh bạn cùng khóa nói
vui: Điệu nầy không khéo chúng mình trình
diện bà Nguyễn Thị Bình tới nơi. Bộ Ngoại
Giao lại đổi chủ một cách không bình thường.
Ngoại trưởng Trần Văn Lắm đắc cử vào Thượng
Nghị Viện ra đi, nhường chỗ cho ông Nguyễn
Phú Đức đang là Phụ Tá Ngoại Vụ Phủ Tổng
Thống. Chỉ sau mấy tháng giáo sư Vương Văn
Bắc thay thế ông Đức.
Nhân viên Bộ Ngoại Giao xem ra không mấy
hoan hỷ với viễn tượng từ nay mỗi năm sẽ có
thêm 10 người mới vào ngạch trật thấp nhất
sẽ là Tham Vụ hạng nhất. Họ đưa ra những ý
kiến kỳ thị như là đám ấy ra trường sẽ được
gởi về địa phương giúp đỡ các Tỉnh trưởng về
giao tế và nghi lễ, hoặc là họ có thể được
về Bộ Ngoại Giao nhưng chỉ phục vụ trong
nước mà thôi (sédentaire) giống như cách tổ
chức Bộ ngoại Giao Nhật Bản. Mặt khác họ cố
tình “downplay” sự có mặt của chúng tôi. Mỗi
năm chúng tôi phải đi thực tập tại Bộ Ngoại
Giao 2 tháng. Ấy vậy mà phải lần thực tập
năm thứ hai chúng tôi mới được Ngoại Trưởng
Vương Văn Bắc tiếp kiến với sự hiện diện của
tất cả viên chức cao cấp khác của Bộ. Tôi
thay mặt anh em đồng khóa đọc diễn văn rất
cảm kích gợi lại những kỷ niệm 15 năm trước
chính giáo sư cũng tại chỗ nầy số 6
Alexandre De Rhodes (vốn là Học Viện Quốc
Gia Hành Chánh trước khi dời về đường Trần
Quốc Toản) đã truyền đạt những kiến thức căn
bản về các học thuyết chính trị. Giáo sư Bắc
tiếp chúng tôi đặc biệt niềm nở và tỏ ý kỳ
vọng vào việc đào tạo viên chức ngoại giao
của trường Quốc Gia Hành Chánh. Chúng tôi
cũng nhắc nhở nhau trong thời gian thực tập
hãy nỗ lực làm việc hầu gây ấn tượng tốt. Và
cái nhìn của các cấp chỉ huy bộ đã thay đổi,
thuận lợi hơn.
Thế rồi cũng đến ngày ra trường. Lễ tiếp
nhận chúng tôi tại Bộ Ngoại Giao đã được tổ
chức trang nghiêm trọng thể. Giáo sư Nguyễn
Ngọc Huy thay mặt trường Quốc Gia Hành Chánh
(không còn là Học Viện nữa, một thành tích
của Đại tá Quách Huỳnh Hà, Tổng Ủy Trưởng
Công Vụ) giới thiệu các tân khoa và nói về
cách thức đào tạo sinh viên Cao Học Ban
Ngoại Giao. Tưởng cần ghi nhận sự kiện hai
giáo sư Bắc và Huy vốn là chỗ thân tình
không giấu sự ngưỡng mộ và quý trọng nhau.
Bọn tôi rất vui mừng và hy vọng mọi chuyện
rồi sẽ suông sẻ. Dịp nầy tôi lại được thay
mặt anh chị em đồng khóa đọc diễn văn. Có
một chút trục trặc nhỏ. Số là ông Đào Nguyên
Lãng, Giám Đốc Trung Tâm Huấn Luyện Bộ Ngoại
Giao chắc vốn không mấy hảo cảm với chúng
tôi. Có thể là với việc trường QGHC từ nay
đào tạo viên chức Bộ Ngoại Giao, vai trò của
ông bị xuống cấp chăng. Ông ấy muốn xem
trước bài diễn văn của tôi để nếu cần thì
kiểm duyệt. Tôi không chịu và ông nhượng bộ.
Lời phát biểu của tôi vừa cao ngạo vừa khiêm
tốn. Đại để tôi nói rằng chúng tôi được đào
tạo thành những cán bộ chứ không phải là
công chức ngoại giao với tinh thần dấn thân
làm sáng tỏ chính nghĩa quốc gia ở nước
ngoài. Kinh nghiệm và kiến thức chúng tôi
còn yếu kém cần đến sự dìu dắt chỉ vẻ của
các bậc đàn anh.
Giáo sư Viện trưởng Nguyễn Quốc Trị mở tiệc
tiếp tân giới thiệu chúng tôi với quan khách,
đặc biệt có ông Đại sứ Pháp Mereillon, ông
Josiah Bennet, sứ thần đại diện cho Đại sứ
Martin (chắc đang lúc dầu sôi lửa bỏng) và
Ngoại trưởng Vương Văn Bắc. Mọi chuyện dường
như tốt đẹp quá phải không các bạn ? Thế
nhưng thấy vậy mà chưa phải vậy!
Nhưng rồi chúng tôi được bổ về Bộ Ngoại Giao
vào tháng 1 năm 1975. Chỉ hai tháng sau các
bạn đồng khóa thuộc các ban khác được bổ
dụng vào các ngạch liên hệ ở trật chỉ số 510
nếu là sinh viên thuần túy và ở trật liền
trên nếu là sinh viên gốc công chức. Riêng
Bộ Ngoại Giao thì cứ trì hoãn mãi. Họ bị kẹt
việc bổ dụng chúng tôi vào ngạch sứ thần và
2 sinh viên công chức khác vào ngạch cố vấn.
Các sinh viên thuần túy được chấp nhận bổ
dụng vào ngạch Tham Vụ Ngoại Giao hạng nhất.
Đó cũng là một sự nhân nhượng lớn đối với họ
rồi.
Tôi đến gặp giáo sư Trị than thở. Ông nhỏ
nhẹ nói rắng: Chúng ta đang mở được cánh cửa
rồi, các anh chị cứ thong thả đi vào. Bên đó
còn có anh Trần Ngọc Diện cũng là anh em
hành chánh mình cả, lo gì. Tôi lại chạy đến
anh Lê Công Truyền lúc nầy đã là Phụ Tá Tổng
Ủy Trưởng Công Vụ. Đường vào nhà anh quá tối
tăm khuất nẻo thêm vào mưa như thác. Sau khi
nghe trình bày sự việc ở ngoài cổng nhà, anh
thản nhiên: Đúng rồi. Anh mới vào nghề mà
đòi làm “sứ thần” sao được! Nước mưa ngấm
vào người làm tôi thấy lạnh ấy vậy mà không
lạnh bằng câu nói của anh. Ô hay nào tôi có
đòi làm sứ thần bao giờ. Nghị Định Thủ Tướng
quy định như vậy. Thú thật tôi rất bất bình
cách trả lời của một người đang nắm giềng
mối công vụ.
Một hôm ông Lưu Tường Quang, Tổng Thư Ký cho
gọi tôi lên văn phòng nói chuyện. Sau những
câu xã giao, ông đi vào đề về việc bổ dụng
những người mới gốc công chức có chỉ số cao
hơn 510. Ông nói rằng trong nghề ngoại giao
thường người ta hay dùng cách thức thỏa hiệp
để thương lượng. Vậy tôi đề nghị bổ dụng anh
vào ngạch Tham Vụ hạng nhất sau 3 năm, có
nghĩa là chỉ sau một năm làm việc, anh sẽ tự
động thăng ngạch Cố Vấn hạng 3. Tôi trả lời:
Đúng, trong thương lượng có thỏa hiệp. Nhưng
đây là văn kiện pháp quy thì chỉ có thi hành
mà thôi.
Trong lúc chờ đợi, lương bổng của chúng tôi
như sau: Chưa có gia đình lãnh khoản 20 ngàn
đồng, có gia đình 30 ngàn đồng thua lương
chính thức không có phụ cấp chức vụ đến 20
ngàn đồng.
Tôi chuẩn bị kiện Bộ Ngoại Giao ở Tham Chính
Viện thì biến cố 30 tháng 4 xảy đến. nước
mất tất cả sá chi cái ngạch trật. Khi vào tù,
một anh Giám Đốc Nha cũ nói tùy theo kinh
nghiệm và để an ủi hay thật lòng với tôi:
Việc Bộ không bổ dụng anh vào đúng ngạch
trật không thể giải thích được. Đáng lẽ cứ
xếp anh vào ngạch sứ thần nhưng cử anh vào
chức vụ tùy theo kinh nghiệm và khả năng.
Trong tù tôi khá gần gũi với giáo sư Nguyễn
Duy Xuân. Hẳn các bạn khóa 7 còn nhớ giáo sư
lái Floride Sport dáng dấp rất hào hoa dạy
chúng ta môn kinh tế thế giới. Thế mà những
năm trong tù bệnh hoạn đã lấy đi nét tinh
anh của thầy. Có lần thầy nói với tôi: Nầy
anh Phước, tôi nghĩ anh sẽ được về trước tôi.
Nếu vượt thoát tới Mỹ, anh cố theo lại nghề
ngoại giao. Hãy tìm đến trường Fletcher
thuộc Đại Học Tuffs chuyên dạy về ngoại giao.
Tôi tin anh có thể thự hiện được lòng mong
mỏi của tôi vì anh hiếu học và có khả năng.
Tôi cảm kích những khích lệ của thầy nhưng
trong thâm tâm tôi thấy chuyện đó chẳng khác
chi nằm mơ giữa ban ngày. Tù đến năm thứ 10
rồi còn biết ngày nào ra. Ra rồi thì làm sao
mà đi ? Mà đi thì liệu có thoát nổi không ?
Và rồi nếu có tới nước Mỹ đi nữa thì trình
độ của mình làm sao với tới cương vị của một
nhà ngoại giao đại diện cho Hoa Kỳ tại hải
ngoại.
Tôi được tin thầy Xuân mất trong tù khi vừa
tới đất Mỹ. Rất tiếc là tôi không có dịp báo
cho thầy vui là tình cờ tôi đã được vào Bộ
Ngoại Giao Mỹ! Số là khi tốt nghiệp Cao Học
Công Tác Xã Hội (Master of Social Work) tôi
được tuyển dụng bởi cơ quan ICMC/JVA làm
việc tại trại tị nạn ở Phi Luật Tân. Cơ quan
ICMC/JVA là một cơ quan kết ước với State
Department. Cấp chỉ huy tối cao của tôi là
Đại Sứ Mỹ ở Manila. Tôi được cấp thẻ công vụ
như là một “special case worker” của Tòa Đại
Sứ Mỹ. Trong ID ảnh của tôi có background lá
cờ của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Tôi được lui
tới chỗ giải trí của ngoại giao đoàn. Tôi
được mua hàng PX (vì là cháu ngoại nên chỉ
giới hạng vào thức ăn, mỹ phẩm, sách báo).
Và quan trọng hơn hết là được những nụ cười
tươi mời mọc bởi các kiều nữ Maní chen chúc
bao quanh Tòa Đại Sứ hàng ngày bất kể thời
tiết với hy vọng lọt mắt xanh của một chàng
trai Mỹ gốc xoài, mít, hay ổi.
Tôi cứ kể như cái duyên ngoại giao cũng
không đến nỗi triệt buột. Ấy vậy quên thì
thôi, còn nhớ lại cái chuyện sứ thần của 30
năm trước thì vẫn còn… ấm ức… cả đời.
Bạn nào đọc xong bài viết nầy xin gọi cho
tôi ở số (209) 957.2665 hoặc để chửi tôi:
Lẩm cẩm quá mầy ơi, Kissinger nó bán đứng
Miền Nam một cách tức tưởi mà mầy không ấm
ức hay sao ? Hoặc để chia xẻ nỗi ấm ức với
tôi: Đến thời mạt vận rồi, nên áp dụng luật
lệ tùy tiện như vậy đó. À dù sao so với luật
rừng của Cộng Sản vẫn còn khá hơn nhiều.
Thái độ nào của các bạn tôi cũng hoan nghênh
cả.
Nguyễn Văn Phước
No comments:
Post a Comment