Nhóm 1% QGHC - Thông tin nội bộ QGHC Tỵ Nạn Hải Ngoại. Thiết lập từ 2008- Email Liên Lạc: cnguyqghc@gmail.com

Thursday, November 29, 2018

CHUYỆN CŨ ĐÃ KẾT THÚC TỪ LÂU - NHƯNG GẦN ĐÂY CÓ VÀI VỊ THẮC MẮC "TẠI SAO MÌNH CÓ TÊN TRONG DS NHỮNG GIA NÔ HẬU CHIẾN...???"

XIN THƯA;
KHÔNG CÓ LỬA SAO CÓ KHÓI?MÌNH KHÔNG LÀM GÌ MÀ TỰ NHIÊN CÓ TÊN TRONG DS ĐƯỢC SAO? -ĐÂY LÀ 1 BẰNG CỚ CÒN HIỆN LƯU GIỮ TRONG WEBSITE QGHC NAM CALI- NHỮNG TÀI LIỆU LIÊN QUAN KHÁC WebBlog nầy còn gìn giữ đầy đủ - Về những gì quý vị đã hùa nhau khuynh đảo Tổng Hội QGHC khiến cho Tổng Hội bị chính tay Trần Xuân Thời, sau trăm mưu dối trá bất thành, cuối cùng đành phải buông tay ra lịnh chính thức xóa sổ vào cuối năm 2009./-BB/BYQGHC Hải Ngọai. 
 ***

HỘI  CỰU SINH VIÊN QUỐC GIA HÀNH CHÁNH TEXAS   __________________________________________________________________________________ Houston, ngày 17 tháng 9 năm 2012 Thưa quý anh Chủ tịch,
        Thưa quý đồng môn, Tiếp theo thư đề ngày 25 tháng 5 năm 2012 về vấn đề  phục hồi sinh hoạt Tổng Hội, Hội CSV/QGHC/TX đã nhận được nhiều phản hồi gởi thẳng vào hộp thư email của hội TX hoặc qua sự chuyển tiếp của anh Nguyễn Sáu. Sau khi đúc kết ý kiến của các Hội/Chi hội và của một số đồng môn kết quả như sau:

        a/ Các Hội/Chi hội đồng ý việc phục hồi sinh hoạt Tổng Hội CSV/QGHC với vài đề nghị sửa đổi bản Dự thảo Quy chề Điều hành gồm có 5 hội là:

        1.  Hội CSV/QGHC Victoria do anh Nhan Tử Hà

       2.  Hội  CSV/QGHC Toronto do anh Trương Thới Lai
       3.  Hội CSV/QGHC Minnesota do anh Trần Xuân Thời
       4.  Hội CSV/QGHC Nam California do anh Trần Ngoc Thiệu   và
       5. Hội CSV/QGHC Texas
        b/  Ngoài ra, còn có 7 đồng môn sau đây cũng đã đóng góp nhiều ý kiến rất xây dựng để bản Dự thảo Quy chế Điều hành thêm phần hữu hiệu:
1.  Anh Nguyễn Ngọc Liên - ĐS 8 ở Nam California
2.  Anh Nguyễn Tấn Phát - ĐS 11 ở Toronto, Canada
3.  Anh Nguyễn Kim Dần - ĐS 8 ở Canada
4.  Anh Lê Văn Tư - ĐS 8 ở Pháp
5.  Anh Nguyễn Thế Viên - ĐS 17 ở TB Washington
6.  Anh Nguyễn Hải Trí - CH4
7.  Anh Nguyễn Bá Đạt - ĐS 8.
        Ban Chấp hành Hội HC/TX đã họp bàn các ý kiến phản hồi và lấy làm khích lệ trước các ý tưởng xây dựng của các hội và các đồng môn về việc phục hồi sinh hoat cho Tổng Hội QGHC Toàn cầu cũng như vai trò đại diện của Tổng hội cho tất cả CSV tốt nghiệp từ trường QGHC Việt Nam. Hội HC/TX xin được gởi lời cám ơn đến 4 Hội CSV/QGHC và 7 đồng môn có tên nêu ở trên đã bỏ thì giờ nghiên cứu bản Dự thảo Quy chế Điều hành và đóng góp ý kiến.
        Tuy nhiên, sau khi thảo luận và phân tích BCH Hội HC/TX nhận thấy do sự phân hóa giữa các nhóm trong nhiều năm qua khiến cho sinh hoạt của Tổng Hội gián đoạn quá lâu làm cho một số hội và không ít đồng môn có ý niệm tiêu cực về vai trò của Tổng Hội. Một số đồng môn khác do nơi tuổi tác cao đã trở nên kém năng động và không còn thường xuyên sinh hoạt với nhau đã khiến một số hội phải ngưng hoạt động. Ngoài ra, sự đánh phá một cách vô trách nhiệm của một vài cá nhân cũng khiến cho một số đồng môn nản chí và mất lòng tin vào bốn chữ QGHC.
        Do đó Hội HC/TX đã không ngac nhiên khi thấy ý kiến phản hồi không đạt được tỉ số cần thiết đủ để Hội HC/TX tiếp tục công việc. Chúng tôi vì danh dự và lợi ích của tập thể QGHC cũng như vì tình đồng môn của những người cùng tốt nghiệp từ một ngôi trường có quá trình đào tạo công bộc phục vụ cho đất nước nên Hội CSV/QGHC/TX trong mấy năm qua đã bất chấp mọi trở lực đứng ra gánh vác công việc vận động phục hồi sinh hoạt Tổng Hội. Nhưng nay trước một thực trạng đau buồn là lòng tin và niềm tự hào là CSV/QGHC đã bị soi mòn bởi thời gian nên Hội HC/TX rất tiếc phải thông báo đến quý anh Chủ tịch và đồng môn khắp nơi là thiện chí và cố gắng của hội CSV/QGHC/TX trong nổ lực phục hồi sinh hoạt Tổng Hội từ nay tạm ngưng. Trong tương lai, nếu có môt sáng kiến khả thi nào được nêu ra, hội CSV/QGHC/TX sẽ sẳn sàng hỗ trợ và tham gia.
        Dù có Tổng Hội hay không, chúng tôi tin là  tình đồng môn QGHC vẫn sẽ mãi là sợi dây ràng buộc chúng ta với nhau và trong niềm tin đó chúng tôi xin kính chúc quý anh Chủ tịch và quý đồng môn mọi sự an lành và một cuộc sống hưng thịnh.
       Kính thư,
       Nguyễn Văn Thảo
       Chủ tịch Hội CSV/QGHC/TX
 



Wednesday, November 28, 2018

Đốc Sự QGHC & Kỹ Sư NLSÚC Bùi Bỉnh Bân đã Qua Đời tại Nam Cali.

   


Đó là Cựu Chủ Tịch Cộng Đồng VN Nam Cali, Kỹ Sư Bùi Bỉnh Bân. Đồng thời ông cũng là Giám Đốc Đài Truyền Hình FreeVN.Net. Vào lúc 5 giờ 15 chiều thứ Ba, ngày 16 tháng 10, 2018, kỹ Sư Bùi Bỉnh Bân đã được rút ống trợ sức. Ông là một Phật tử có pháp danh Quảng Trí Thiện.



Hình chụp lúc Hòa Thượng Nguyên Trí tụng kinh trước khi rút ống tại Bệnh Viện Hoag ở thành phố Newport Beach, Quận Cam chiều thứ Ba, 16 tháng 10, 2018. (Thanh Phong/Viễn Đông)

Kỹ Sư Bùi Bỉnh Bân sinh năm 1937 tại Nam Định, Bắc Việt, cựu học sinh trường Bưởi - Chu Văn An Hà Nội, di cư vào Nam năm 1954, ông tiếp tục học tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, rồi Đại Học Nông Lâm Súc và tốt nghiệp Kỹ Sư về các máy móc Công Nông, sau đó làm giảng viên tại trường Nông Lâm Súc, đào tạo nhiều Cán Sự và Kỹ Sư cho ngành Nông, Lâm, Súc tại miền Nam Việt Nam.


Ông Bùi Bỉnh Bân trong hình chụp tháng Hai 2016 tại Westminster. (Thanh Phong/Viễn Đông)

Di tản sang Hoa Kỳ và định cư tại miền Nam California, ông dấn thân phục vụ cộng đồng trong vai trò Chủ Tịch Ban Chấp Hành Cộng Đồng Việt Nam Nam California liên tiếp hai nhiệm kỳ sau tướng Trần Văn Nhựt làm Chủ Tịch.

Sau khi rời khỏi chức vụ Chủ Tịch Cộng Đồng một thời gian, ông quay sang làm truyền thông, mở đài truyền hình FreeVN.Net và thường xuyên trực tiếp truyền hình các sinh hoạt cộng đồng mà không nhận bất cứ thù lao nào cũng như không nhận quảng cáo hay thuê mướn nhân viên, một mình ông vác máy đi quay mặc dù đã lớn tuổi.

Vào chiều ngày thứ Sáu, 12 tháng 10, ông bị té xuống hồ cá tại tư gia và bất tỉnh, được người con chở đi cấp cứu, và bệnh viện cho biết ông bị đứt mạch máo não và hôn mê luôn mặc dù đã được các bác sĩ bệnh viện Hoag mổ rút máu bầm ra khỏi não nhưng vẫn không qua khỏi.

Sau khi các bác sĩ cho biết không còn có thể cứu chữa được nữa, gia đình ông đã mời Hòa Thượng Thích Nguyên Trí, Viện Chủ chùa Bát Nhã đến bệnh viện tụng kinh cho ông, và vào lúc 5 giờ chiều thứ Ba, Hòa Thượng Nguyên Trí cùng ba vị Đại Đức và hai Sư Cô đã đến tụng kinh cho ông ở phòng 11 ICU, bệnh viện Hoag tại Newport Beach.

Trước khi tụng kinh, Hòa Thượng Thích Nguyên Trí đã tâm sự với ông, an ủi ông lúc lâm chung mặc dù không biết ông có còn nhận được những lời an ủi của Hòa Thượng hay không. Sau khi tụng kinh lần thứ nhất, Hòa Thượng cho biết, theo nguyện vọng của ông lúc còn sống và nguyện vọng của gia đình, nhà thương sẽ rút ống, và các chuyên viên đã thực hiện việc rút ống đúng 5 giờ 15 chiều. Sau đó Hòa Thượng và các Đại Đức, Sư Cô lại vô tụng kinh lần thứ hai. Sau khi rút ống, ông vẫn còn thở nhưng theo phu nhân ông cho biết, các bác sĩ đã cho hay, não ông hoàn toàn bị hủy nên gia đình quyết định rút ống để ông được ra đi thanh thản. Tuy nhiên, trước khi ra về, chúng tôi gồm vợ chồng anh Phát Bùi, cô Kim Ngân (Viện Việt Học), chủ bút Phan Tấn Hải (Việt Báo) và phóng viên Thanh Huy (Việt Báo), phóng viên Phan Đại Nam (SBT,SET/TV) và chúng tôi phóng viên Viễn Đông vẫn còn thấy ông thở dù đã rút ống.

Kỹ Sư Bùi Bỉnh Bân được nhiều người yêu mến qúy trọng vì tư cách, đạo đức và nhiệt tình phục vụ cộng đồng, rất chân thành với bạn hữu. Trong giờ phút lâm chung, có vợ ông là nha sĩ Nguyễn Ngọc Thanh, con trai là anh Bùi Bỉnh Bảo và con gái Nha sĩ Bùi Thanh Hà đều hiện diện bên ông./-

Monday, November 26, 2018

mẹ và chị và cha






Những hình ảnh thân thương trong nhà vườn Huế vì có hàng chè tàu bao bọc hàng trăm năm qua
giàu nghèo đều có hàng chè tàu xanh
mẹ và chị và cha
tôn tht tu 

Từ bé, tuần nào tôi cũng được chị đưa đi thăm mộ mẹ. Tôi không còn sợ hãi những chiều nắng quái trên đồi. Nhờ vòng tay ấm của chị, các cồn mồ biến thành những sân chơi trường mẫu giáo. Huế không có nghĩa trang kiểu tây phương Saigon với các ngôi mộ sắp xếp cạnh nhau như cá hộp.


Bước ra khỏi thành phố, ta thấy ngay các vùng chôn mồ mả, nhất là phía đồi cao như Nam Giao, Ngự Bình. Mồ mả xoay hướng khác nhau tùy sự đặt để của các thầy địa lý (phong thủy) qua các la bàn bát quái với các lằn quẻ âm dương. Đa số là các mộ đất như nắm xôi in trong chén rồi đổ ra mâm. Một thành quách cao không quá bụng chạy vòng quanh các bánh xôi ấy như ôm thương người nằm xuống.


Tôi thích những cành hoa sim dại, những cành bông trang đỏ có trái xanh nhai chát chát. Những cành chủi có mùi thơm gần giống dầu khuynh diệp bẻ về làm chổi rành quét sân. Có những lần ham bẻ cành, tôi đã ngả vào bụi lùm làm chị ngỡ tôi bị ma thu.


Cho đến giờ nầy, tôi vẫn vô lý nghĩ trên đồi vắng nơi chôn mẹ chỉ có hai chị em. Đứa bé trong tôi không sống xa khỏi vòng tay của chị và một nấm mộ mà người nằm bên dưới không có trong đầu óc tôi một hình ảnh nào ngoài danh từ mẹ với quyến luyến của trí tưởng và tâm hồn trẻ thơ, tình cảm tự nhiên trời đất dành cho một đứa bé. Chị tôi đã làm chủ không gian vật thể và tâm cảm của tôi.


Một lần tôi thấy sự hiện diện vô biên của chị. Chúng tôi không bao giờ đem theo nải chuối, bó hoa hay gói bánh cúng mẹ. Vỏn vẹn một bó nhang thơm và một hộp diêm, chị giữ rất kỹ. Hôm ấy sao tôi thích cái hộp diêm quá, có hình con bướm vàng tươi. Chìu em, chị cho tôi giữ. Đi ít lâu tôi bỏ vào túi quần, túi thủng đến nơi may chỉ còn một cây và cái hộp. Lấy bao nhang mồi lửa thì một que đã đủ. Nhưng gió quá, chiếc nón lá không đủ che nên lửa tắt.


mỗi nơi chôn mả, có một lều tranh, nhà ông trùm. Đất chôn thì không của ai nhưng ông trùm bao thầu sửa mộ, thắp nhang cho những đám mới chôn. Từ mộ mẹ đến ông trùm khá xa. Nơi ấy mới có lửa. Trời khá chiều, chị bảo tôi đứng tại chỗ, chị đi đốt nhang.
"Em đứng đây không sao, có mẹ đây"; vừa nói chị vừa chỉ tay vào nấm mộ. Tôi vâng lời đứng một mình. "Có mẹ đây", tôi nghe mãi trong tai, tôi chăm chú nhìn vào nắm đất tròn như bánh xôi. Mẹ đâu? mẹ như thế nào? tôi chẳng mường tượng ra ngoài một niềm thương bao la. Tôi thấy tôi chỉ đứng một mình, không có mẹ như chị nói, còn chị cũng không có đây. Tôi run sợ. "Chị đâu? chị đâu?" tôi la to hoảng hốt.

Tôi chạy về phía nhà ông trùm. Đâu có lối đi, chỗ cao chỗ thấp. Sợ quá tôi chạy băng lên một nấm mộ; tôi té đầu chúi xuống, hai chân trên đỉnh mồ của ai. Tôi sợ quá nên nằm yên tuy không thương tích gì. Lúc sau tôi thấy một bóng ma giữa ban ngày tay cầm cây đuốc mặc chiếc áo trắng dài đi rất nhanh. Tôi hét lên giữa cái hoang vắng của buổi chiều. Bóng ma cũng hét to rồi chạy xa, tay vẫn cầm cây đuốc. Tôi ngồi dậy nhìn bóng ma thì ra là chị trong chiếc áo trắng. Cây đuốc chính là bó nhang đang đỏ cháy trong gió chiều. Tôi chạy theo chị về nơi mộ mẹ. Lúc ấy chị đang bàng hoàng hoảng hốt vì không thấy tôi, tưởng ai bắt mất hay ma thu vào bụi cây.

Bó nhang thắp từ nhà ông trùm cháy trong gió đã hơn một nửa. Chị cúi xuống cắm vào mộ đất bên cạnh những chân nhang cũ đã phai màu. Cắm nhang xong mà chị vẫn ở trong tư thế ấy một lúc lâu trong khi tà áo theo gió bay cùng chiều với khói hương. Chị quay về phía tôi nói:
"Chị khấn mẹ rồi đấy! em lạy mẹ đi, em xin mẹ tối nay mẹ về cho chị nằm mơ thấy mẹ về, em lạy mẹ đi".

Tôi thấy chị tôi khóc. Tuy chỉ có hai chị em trên đồi vắng, tôi thấy chị thẹn, lấy tà áo chùi mắt nói bâng quơ: “Khói nhang làm chị chảy nước mắt”. Khói nhang đâu?! gió bạt khói đi mất, bay là là ngang mặt đất. Tôi chấp tay trên ngực lâm râm khấn nguyện trước khi ra về.

Nắng chiều còn sót lại trên tà áo trắng và chiếu óng ánh trên nón lá bóng dầu rái chị cầm tay và tay kia nắm tay tôi. Thỉnh thoảng hai chị em ngừng lại vì bó cây tôi kẹp nách sụt lên sụt xuống. Đường đất mịn như phấn hoa trời rải xuống; những đôi chân nhỏ in lên chầm chậm như buổi chiều. Lần nào đi thăm mộ cũng đi trong im lặng. Im lặng như những khe nước nhỏ mà trong chạy qua các khu mồ mả với những bụi dứa gai xanh chai trong mùa hạ khô ráo.

Sau khi băng qua ngọn đồi, chúng tôi đến con đường cái đã hư nát từ lâu và không xe cộ. Bắt đầu có nhà cửa lưa thưa, đôi cảnh chùa tịch mịch, cây cối nhiều hơn. Đến một ngã ba đường chị ngừng lại. Tôi đặt bó cây xuống đất và ngồi lên như nệm êm. Đường rất vắng; chẳng ai nói gì. Mặt chị buồn lại, ra vẻ muốn khóc. Tôi chả dám hỏi mà cứ nhìn mãi đằng xa ngõ mà chúng tôi sẽ không đi khi về nhà, tưởng tượng như nó đưa đến một vùng xa lạ ngoài vòng tay của người chị bên cạnh.

See the source image
mồ mã quanh Ngự Bình nay đã đi dời khá nhiều

"Cách đây gần chín năm, chị nói, ở ngã ba đường nầy chị đã bồng em trên tay vái mẹ lần cuối trước khi mẹ chôn xuống đất. Đây, ngã ba nầy". Nói xong chị cầm tay tôi kéo dậy đi về kẻo tối.

Huế trong tang lễ có phần tế đạo trung, cúng ở ở ngã ba đường. Quan tài được hạ ngay giữa trục lộ. Giờ nầy ý nghĩ của nó tôi chưa hiểu; nhưng có điều chắc là nhờ nó mà phu đám được nghỉ sau một đoạn đường gánh nặng. Đối với gia đình có lẽ để níu kéo thời gian bên dưới và bên trên mặt đất. Tiếng chiêng tiếng mõ vang lên bên những câu kinh tụng kinh tán; thân nhân quì lạy theo nghi thức do các nhà sư điều khiển.
Chị cho biết lúc ấy tôi chưa được một tuổi, bà vú ẳm tôi theo đám tang. Nhưng trong các lễ ở mộ hay giữa đường, vì là ngoại tộc, vú không thể ắm tôi đến lạy trước vong hồn của mẹ; chị phải bế trong đôi tay nhỏ bé. Những lúc nghiêng mình trước quan tài mẹ, chị như sẵn sàng thả tuột đứa em xuống đất.

Cầm tay tôi đi được mấy bước, chị ngừng ngay giữa ngã ba đường, nơi trước đây đặt đám tang tế lễ, rồi quay lưng về đoạn đường vừa đi. Theo tôi, chị nhớ lại đám tang ngày nào đi qua đấy. Đúng rồi, bao giờ chị cũng dẫn tôi đi và về một lối, không rẽ ngõ khác dù khẩn cấp, đi theo con đường đám ma của mẹ.

See the source image
bông xanh cùng ngũ sắc và sim tím khắp các cồn mồ



Một hôm tôi chạy từ ngoài ngõ vào bếp, vừa chạy vừa gọi: "chị ơi". Chị đang bực mình vì bếp lửa nhen chưa cháy mà nồi gạo đã vo sẵn. Mặc kệ, tôi kéo bừa chị ra cỗng.
"Chị ra đây nhanh lên, nhanh lên kẻo đi mất".
"Cái gì thế?"
"Cái đám ma, chị nói cho em nghe đám ma của mẹ có như thế nầy không?”

Chị không còn bực tức mà trông buồn lắm. Tôi thả tay ra thì chị nắm tay tôi. Hai chị em đứng lặng thinh. Đám tang đi qua, chị quay vào nhà, tôi đi theo tận bếp. Chị nói:
" Thì cũng vậy. Mà lớn hơn, đông hơn. Hồi ấy cha danh vọng lắm; mẹ chết cha bỏ hết công việc. Có khác là không thấy ai bồng một đứa bé như em hồi đó".

Đám tang trên theo cung cách đặc biệt của xứ Huế. Một phần chưa có lệ đưa đám bằng xe hơi, một phần ai cũng thích kiểu đưa đám bằng cách gánh với một số phu đám lực lưỡng với sắc phục riêng, đứng đầu là một ông lão đi thụt lùi, lưng thắc dung vải đỏ, tay cầm đôi sanh gõ nhịp điều khiển bằng những khẩu lệnh riêng. Người đó gọi là chấp lệnh. Chỉ có yên lặng trừ tiếng sanh và lệnh truyền.

Hai thân gỗ lớn, chạm hình rồng sơn son thếp vàng chịu cho một khung đám lung linh với các nghi môn mà màu chính là vàng. Khung cửa hẹp có màn che vén qua một bên để lộ cái hòm sơn đỏ với các cây đèn cầy màu trắng bên trên. Bảy cây đèn xếp theo hình Đại Hùng Tinh (hệ thống Bắc Đẩu) mà dân gian gọi là sao bánh lái. Nhưng xếp ngược, tượng trưng việc xếp bánh lái ngừng nghỉ như người chết ngừng nghỉ cuộc sống.

Nói một ông lão dẫn đầu, nghĩa là dẫn đầu phu đám. Thật ra đi đầu là một tràng phan ghi chữ Hán móc vào đầu một cây tre nhỏ bên trên còn chút lá xanh, theo sau bởi một hương án. Tràng phan bằng vải phất phơ như một linh hồn còn đâu đó bên trong hay bên ngoài cái hòm hay vương vấn lòng người đi tiễn về vùng núi đồi trên kia.
Tôi hỏi chị đám tang mẹ có cái phan ấy không, chị đáp:
"Có chứ, quan trọng nhất, linh hồn của mẹ nằm trong đó, sao lại không. Nhà nghèo làm bằng giấy. Hỏi mãi hỏi hoài".
Trước đó mấy hôm khi theo cha cắt xén hàng rào chè tàu, tôi cũng thấy một đám ma đi qua, tôi định hỏi như hỏi chị hôm nay nhưng không dám. Cha đứng trên cái ghế thấp, hai tay cầm cái kéo lớn gần bằng mình tôi, chăm chú cắt những nhánh chè tàu chỉa ra như hàm râu. Lá chè rụng xanh cả lối vào. Tôi thấy rất xa cha vì cái mặt đăm chiêu bao giờ cũng suy nghĩ và đang lo một cái gì. Thế giới của cha không phải là thế giới của trẻ thơ. Thế giới của tôi là vòng tay của chị.

Sau khi mẹ chết, cha bỏ hết mọi chuyện ngoài đời, bỏ ngang, lui về sống với chút tiền bạc tích lũy từ trước; sống với cái vốn học thức của mình. Cha học chữ Hán qua khỏi cấp cử nhân trong chế độ thi cử của triều đình Huế. Khi Quốc Tử Giám đóng cửa, cha học tiếng Pháp và ra Hà Nội học kinh doanh. Với cái chết đột ngột của mẹ, cha rất buồn và tìm đọc văn chương Pháp nhờ vốn ngoại ngữ sẵn có.

Rồi một sáng, một nhà tu trẻ trong chiếc áo nâu đến thăm, tay cầm một cuốn sách chữ Hán nhờ cha đọc và dịch. Bọn tôi không biết sách gì mà chỉ biết sau đó cha không ăn cơm tuy vẫn ngồi ở đầu bàn như thường lệ. Trưa đó cha không ngủ mà lục lọi trong tủ tìm ra một miếng đá, dày bằng hộp diêm, to bằng nửa tờ giấy. Cha bảo chị đem ra thau nước, ngồi xuống rửa sạch bụi. Tôi đứng xem, thấy một miếng đá xám có vân trắng, có mặt khuyết cạn và ở góc có chỗ trũng sâu. Cha lấy khăn chùi sạch rồi để miếng đá bóng loáng lên bàn.

Cha lại đi tìm cái gì nữa. Chừng 10 phút sau, cha bảo chị qua bên kia cầu nhà chú Bốn người Tàu bán thuốc bắc xin viên mực xạ và mượn vài cây bút lông. Hai chị em đi và đem về số đồ vật cha muốn có.
Lúc đó tôi mới biết phiến đá là nghiên mực. Cha lấy ra mấy tờ giấy rồi viết chữ Tàu to nhỏ trên xuống và phải qua. Viết xong cha ngã lưng vào ghế, mắt lim dim. Lát sau cha gọi chị: "Con qua chú Bốn lần nữa mượn cái hộp son đỏ". Đoạn cha vào tủ lục lọi nữa.

Tôi lại theo chị qua tiệm thuốc bắc, đem về cái hộp bằng sừng hay bằng ngà to bằng hộp diêm. Cha đã đứng sẵn ở cửa tay cầm một cái gì to bằng ngón tay trắng ngà. Cầm hộp son, cha đến ngay bàn mở ra, rồi lấy cái ống trăng trắng ấy chấm vào rồi đóng lên tờ giấy có chữ Tàu mới viết. Hồi nãy tôi biết bút nghiên là gì, bây giờ biết thêm triện son là gì.

Cha đi vào chỗ bàn thờ, đặt tờ giấy xuống trông rất ngượng ngập rồi đi ra ngay. Sau nầy tôi thấy cái ngượng ngập ấy như cái ngượng ngập khi tặng người yêu đôi vầng thơ vụng dại. Lúc ấy tôi không biết cái gì; thấy chữ Tàu tôi nghĩ như những sớ điệp viết trên tờ giấy vàng rất lớn mà các nhà sư quỳ xuống đọc khi tụng kinh cầu siêu hay khi kỵ mẹ. Lớn lên, tôi đoan chắc đó là một bài thơ viết tặng mẹ, mẹ đã chết từ bao giờ. Cha tôi làm thơ!

Sự xuất hiện của nhà sư trẻ làm cha nhớ kho Hán học. Cha thích viết chữ Tàu trên những tờ giấy vàng nhạt, tờ nầy qua tờ nọ. Cha lại thích uống trà. Những bộ tách trà trong tủ kính đem ra sử dụng thường ngày. Chị nay có thêm việc mới là ướp trà. Cha dạy chị ướp trà sói, trà lài v.v.... Còn tường vi thì hái bỏ ngay vào bình uống tươi. Có lần chị bỏ trà vào hoa sen nở trong bể cạn rồi túm miệng lại, vào nhà nấu nước rồi trở ra lấy. Ngoài ra chị còn học cách tỉa thủy tiên ngày Tết, những củ thủy tiên như củ hành tây. Từ dạo ấy cha không mặc áo quần tây nữa. Chị xếp những áo veste, áo gilet, ca vạt... vào tủ. Cha mặc áo lam hay áo nâu như các đạo sĩ, trầm ngâm bên án thư. Thế giới của cha xa vời tuy tôi thường theo chị hầu cha như ướp trà, pha trà hay mài mực...

Lại một ông khách trẻ đến thăm làm thay đổi đời sống của cha. Vào một chiều, một người khá trẻ đi cùng vợ tự giới thiệu là con của người bạn học với cha ở Hà Nội. Cha đem những tờ giấy vàng nhạt đầy chữ viết cho xem. Ông khách bảo mình tây học không biết chữ Hán nên mượn về cho bố đọc. Hai ngày sau cặp vợ chồng ấy trở lại, mang theo mấy cuộn giấy cứng, mấy cây thước dẹp, một số dụng cụ văn phòng đối với tôi rất lạ. Sau một hồi nói chuyện, cha gọi chị đem ra một bộ áo quần tây, một đôi giày. Mặc áo quần xong, cha đi mãi tới chiều mới về.

Thấy cha về, bọn tôi rất mừng vì trưa nay lần đầu tiên cha không ăn cơm nhà. Từ ngoài đi vào, cha cầm cây bút chì vẽ trong không trung, dáng suy nghĩ, đi thẳng vào bàn lấy khoanh giấy ra, vẽ rất say sưa. Tôi chẳng biết là gì, sao cứ thấy sợ hãi, cha xa mình quá. Tôi hỏi chị cha làm gì thì được biết vẽ kiểu nhà. Hồi học ở Hà Nội tuy theo ngành kinh doanh, cha có khiếu về kiến trúc, đã viết rất nhiều về bộ môn nầy, cũng như đã sửa một số đồ án. Ông bạn cũ biết khả năng nên muốn nhờ vẽ nhà cho người con tức là ông khách tây học nói trên.

Cha bỏ hẵn lối ăn mặc nâu lam, trở về các bộ áo quần tây và thường bỏ ăn trưa. Bàn cha làm việc đầy bút chì, thước, quanh chỗ ngồi là những ống giấy dựng vào tường như một tiệm sách. Cha cũng đem về nhà những cuốn sách chữ Pháp in hình rất đẹp. Lúc cha đi vắng, hai chị em lấy xuống, trải chiếu ngồi xem chỉ chỏ cái nầy cái nọ.

Vào một trưa cha về lần đầu tiên không có cây bút chỉ trong tay. Lần nầy là một cây bút lông rất lớn. Ca bảo chị đem cái thau nhỏ múc một phần ba nước. Cha cầm hai hay ba viên mực Tàu bẻ nhỏ quẳng vào. Cha đến bàn, kéo lơi cái cà vạt, dáng ưu tư như mỗi khi viết chữ Tàu. Cha đứng dậy cầm cái thau mực và cây bút vào bàn thờ và bảo chị đem ra một cái ghế thấp. Tôi đi theo.

Bàn thờ là một khu vực bao quanh bởi ba bức tường và phía trước bởi một bức mành tre thưa. Ở giữa mành vẽ một chữ thọ tròn màu vàng cùng hai con rồng lớn. Bức tường đối diện với mành the có vẽ qui phụng và các loại hoa trang trí khác. Hai bức tường kia chỉ sơn vôi trắng. Trưa ấy cha viết trên hai bức tường nầy những dòng chữ Tàu lớn cũng trên xuống và từ phải qua như trên những tờ giấy vàng nhạt, có khác là không có triện son.

Cha lui ra ngồi ở bàn. Chị pha ấm trà đem lên để nhẹ rồi đi xa. Chị vào bàn thờ lấy cái thau và cây bút lông đi rửa và giao tôi nhiệm vụ cất cái ghế cha đứng viết trên cao.

Nhân đó tôi đứng trên ghế nhìn xem trên bàn thờ có những gì. Từ trước tôi chỉ biết nơi đó có cái gì linh thiêng; lạy mẹ thì cứ đứng ngoài chắp tay lên ngực; thấy người lớn chưng dọn lên đấy thức cúng và trái cây. Lần nầy tôi thấy bức ảnh của mẹ lộng kính, phủ bởi một khăn đỏ viền vàng đã cũ. Tôi lấy cái khăn ra khỏi ảnh. Tôi nhìn rất kỹ thấy có nhiều nét giống chị. Tôi lấy khăn phủ lại và đem cái ghế đi. Tôi tìm ngay chị để so sánh có thật giống như ảnh mẹ không; quả giống tuy có nhiều nét giống cha. Giá như tôi đã xem hình mẹ trước khi đi thăm mộ lần kia tôi đã không hét lên vì không tìm được mẹ khi chị đi vào nhà kia đốt nhang và đã không té nhào làm chị hoảng sợ.

Sau lần viết trên tường, cha ở nhà thường hơn tuy vẫn tiếp tục công việc với các cây bút chì. Tôi không thấy cha viết trên các tờ giấy vàng nhưng nhiều buổi sáng, cái nghiên đá có dấu mài mực còn tươi; có lẽ vào giờ khuya khi tôi ngủ, cha viết tức là làm thơ.

Chinese calligraphy
chữ Tàu và triện son


Khoảng gần một năm sau, ngủ dậy tôi thấy cha đã ngồi ở bàn, mặc áo lam. Trên bàn không còn bút chì, thước, giấy cứng. Cái nghiên đá dằn lên một xấp giấy vàng dày cộm. Chị đem bình trà lên. Cha không nói gì mà nhìn chị rất lâu rồi cúi đầu. Tôi nhìn chị, chị rất giống mẹ. Cha ngẩng đầu quay qua chỗ chị đứng, vẫy tay gọi:
"Hôm nay ăn gì? Này con, chiều nay nấu ăn như thường. Con nấu bữa cơm chay cúng mẹ rồi đem xuống ăn. Cúng sớm một chút".


Hôm đó cha đi dạo trong vườn, lui tới nhiều lần cạnh hàng dậu chè tàu cắt gọn. Cha không viết vẽ gì mà trông thản nhiên; tôi không còn cảm giác sợ hãi. Vì vậy tôi không theo chị ra chợ mà ở nhà. Trưa ấy, ăn cơm xong cha ngủ trưa. Tôi lại ở trong bếp giúp chị nấu bữa cơm chay.

Khi nắng chiều còn nhiều, mọi việc đã xong. Chị đưa cổ cúng lên bàn mời cha vào cúng. Cha đứng rất lâu bên trong phía trái; phía phải là hai chị em tôi. Một bầu không khí bùi ngùi. Khi cây nhang gần cháy hết, cha bảo chị xuống bếp gắp mấy cục thang đỏ vào cái lò trầm nho nhỏ. Cha đến bàn lấy thỏi trầm nhỏ bằng ngón tay bỏ vào, rồi dùng tay quạt cho trầm cháy. Trầm hương tỏa ra cả nhà rất ấm cúng; mà cũng ngậm ngùi lắm.

Cha trở lui bàn, cầm xấp giấy vàng dưới cái nghiên đá, đến bàn thờ đưa cả xấp mồi cháy nơi cây đèn cầy rồi đốt trong cái chuông đồng ở phía phần thờ Phật.

Chiều hôm ấy, một chiều ăn cơm chay.

Cha đã chuẩn bị rồi chăng? Hai hôm sau như một định mệnh, cha chết trong một tai nạn khi đi xem người ta xây cất một ngôi nhà lầu do cha vẽ kiểu. Chị lên trường nội trú đón hai anh về chịu trang. Từ đó chị đảm trách mọi việc. Hai anh không đi nội trú nữa.

Từ khi cha chết, tôi thấy gần cha và nhớ nhất những phút đăm chiêu của cha. Càng ngày tôi càng thấy thích thú nét đặc biệt đó: ngồi thừ ở án thư không màng cơm nước. Càng thích khi hiểu những suy tư ấy dành cho mẹ. Tôi vẫn tin cha tìm gặp nơi chị những nét mặt của người vợ chết đột ngột như cha chết đột ngột trong một tai nạn đơn giản.
Mẹ mất từ hồi nào tôi không biết, tôi không thắc mắc; chỉ biết mẹ nơi chị, chị còn đó. Nhưng cha chết, tôi cứ suy nghĩ mãi về cuộc đời của cha nhất là các suy tư dành cho mẹ. Giá như cha không đốt những tờ giấy vàng, tôi đã học chữ Hán hay nhờ người dịch để biết những ý nghĩ sau những dòng mục đen. Chị thì chất phát, suốt ngày lo cho cha và em; hai anh học nội trú, còn tôi quá nhỏ nên không ai biết cha giao dịch với ai để tìm hiểu; ngoài ra khi mẹ mất, cha bỏ hết các công việc ngoài xã hội.
Ngày kỵ đầu, một người bạn của cha đến cúng, giải thích cho chị hai bài thơ viết trên tường. (Chị nói lại về sau). Ý nói cha buồn vì chưa làm gì cho mẹ mà mẹ đã chết; khuây khỏa trong việc vẽ kiểu nhà cho người ta, thì biết mình không xây được nhà cho vợ. Chúng tôi chỉ nghe thế thôi, không ai biết chữ Hán. Có lẽ hôm đốt những tờ giấy vàng, cha quên cạo những chữ trên tường.

Sau một thời gian vào Nam học và làm việc, tôi trở về Huế trong một dịp công tác. Tình cờ tôi ghé ở lại nhà một người quen. (Gia đình tôi anh em đã đi lính trú đóng tại các tỉnh và lập gia đình tại chỗ, chị tôi lấy chồng xa, ngôi nhà cũ đã bán từ lâu). Tối hôm ấy trời mưa, cái mưa quen thuộc của xứ Huế nhưng mới lạ với tôi sau thời gian dài xa thành phố nầy. Tôi ngủ không được; chủ nhà cũng thức uống café. Nhà có một tủ sách rất lớn với những cuốn sách dày cộm nhưng thiếu ánh sáng, như bỏ quên.
Tôi tò mò đến xem thì ở ngăn cao nhất có một tập rất lớn, to bằng tờ nhật báo. Đó là những họa đồ của ngôi nhà tôi đang trọ. Ký ước về cha làm tôi mang cả tập ra phòng khách xem cho rõ. Ngạc nhiên dưới một chữ ký có đề tên cha, kèm thêm mấy chữ "kiến trúc sư tài tử" bằng tiếng Pháp. Ở gần kề có một chữ ký khác, của một kiến trúc sư kèm con dấu. Bên dưới là chữ ký của một người Pháp thuộc cơ quan công chánh.
Tôi không hiểu thể lệ thời Pháp thuộc về các công trình xây cất. Nhưng tôi vẫn tin rằng họa đồ nầy do cha thiết lập nhưng để được ty công chánh chấp thuận, phải đệ nạp bởi một kiến trúc sư hành nghề hợp pháp.
Theo diễn dịch riêng của tôi, đây là tác phẩm của cha, vẽ như vẽ nhà cho người vợ, tuy trên thực tế là nhà người ta. Vẽ với tâm hồn, như viết một tập thơ.

Tôi đến đã tối nên không thể nhìn tổng quát ngôi nhà cũng như không thể đi khắp bên trong. Tôi chăm chú xem các bản vẽ chi tiết. Cùng với các đường nét trong phòng tôi đang ngồi, sơ khởi đồ án ấy cho biết một dung hòa giữa hai lối kiến trúc đông và tây; phối hợp sự tiện nghi và nét nhu mì.

Sáng hôm sau tôi nói rõ ai vẽ nhà nầy và xin ông bạn cho phép xem ngôi nhà tỉ mỉ hơn. Việc nầy cũng đưa đến nhận xét dung hòa nói trên. Trong mưa phùn xứ Huế, tôi đứng ở hành lang tưởng nhớ khuôn mặt của cha khi ngồi vẽ các họa đồ, tưởng nhớ những tách trà chị pha. Cái vườn cũng có hàng chè tàu tuy không cổ kính như nhà cũ, nó ăn tiệp với các đường nét hoa viên Tàu và Tây.

Sau tách café đen đậm và mấy điếu thuốc Bastos, tôi từ biệt anh bạn. Chủ nhà tiễn tôi đến cỗng. Tôi ngập ngừng và ngậm ngùi ngõ ý mượn họa đồ chụp giữ một bản kỷ niệm và nghiên cứu thêm.
Chủ nhà đồng ý và điện thoại cho ty điền địa, cơ quan duy nhất có máy chụp lớn. Chẳng may máy hư. Tôi nằn nì cho tôi đem đi Saigon tháng sau đem trả. Chủ nhà không chịu:
"Gia bảo anh ạ. Nếu máy in được tôi cũng phải đi theo anh chụp rồi đem về. Thôi để lần sau."

Trưa hôm ấy tôi ra phi trương vào Nam. (Ít lâu sau là tết Mậu Thân, cái Tết oan khiên cho thành phố trầm lặng nầy; ngôi nhà nầy trúng đạn cháy sạch. Nhà nầy không có lầu, nghĩa là cha không chết ở đây).

Xe tòa tỉnh đưa tôi về sân bay trong mưa phùn. Con đường qua An Cựu, qua Dạ Lê thật buồn tênh. Gió lạnh lắm, cái lạnh để thấy cái nóng của Saigon sau mấy giờ bay. Gần quận Hương Thủy, xe tôi ngừng lại nhường cho một đám cưới nhà quê đi qua, ngay khi tôi đang tưởng nhớ cảnh chị pha trà cho cha ngồi viết hay vẽ.

Cái đám cưới! Mà đám cưới nào chẳng có cô dâu, một người con gái như những người con gái khác trong đó có chị tôi, hình ảnh của mẹ. Ngồi trên xe, tôi rụt cổ lại, hai tay kéo cao cố áo khoác, tôi cúi mặt xuống gầm xe không dám nhìn đoàn người mặc áo màu trước mắt. Cái đám cưới. Chị tôi đi lấy chồng xa, lâu lắm tôi không gặp mà thư từ cũng thưa.

Tôi đến phi trường đúng giờ nhưng máy bay trễ. Mưa rất ít, mưa phùn, mưa lạnh lắm, lạnh sẽ mất ở Saigon sau chuyến bay. Ruột gan tôi bị đảo lộn bởi cái đám cưới kia. Tôi mong máy bay đến gấp đem tôi đi khỏi mãnh đất của ray rức, của thời gian, cho tôi xin cái xô bồ của Saigon.

May quá, con chim sắt chỉ trễ nửa giờ. Tôi ngã người ngủ trong chiếc ghế nệm êm và thức dậy trong cái nhà cha vẽ kiểu. Tôi đoan chắc mấy năm về trước, khi ngồi vẽ nhà nầy, cha vẫn thấy mẹ đang ngồi trước cây bút chì. Cha vẽ một ngôi nhà cho mẹ, mẹ đã mất.

Kiểu nhà ấy nói lên một dung hòa trong kiến trúc như cuộc đời cha dung hòa trong tính tính, dung hòa giữa Hán học và Tây học. Một dung hòa giữa đời sống xã hội có danh vọng và một nét bút mực Tàu tặng người vợ đã chết, còn sót lại vài nét nơi đứa con gái. Cha buồn đã không làm gì cho mẹ như nói trong bài thơ trên tường. Tâm cảm ấy có thể đã dày vò cha cho đến hai ngày trước khi chết, thản nhiên đi lại trong vườn chờ đến chiều cúng mẹ bữa cơm chay cuối cùng.

Phần tôi, tôi không nghĩ cha đã không làm gì cho mẹ. Tuy mẹ mất từ lâu tôi không biết, tôi đoán cha đã đem cho mẹ một sự dung hợp, căn cứ vào những dung hợp nói trên. Một dung hợp giữa xã hội thời ấy đòi hỏi người vợ như một công cụ của gia đình và tình thương xây dựng bởi một mẫu người phóng khoáng và có chút tây học. Nếu cha đã bất nhân với mẹ thì cần gì có lối sống bất thường như vậy. Cha có thể lấy vợ khác, mẹ đã chết rồi mà. Cha có thể làm việc ấy khi mẹ còn sống vì luật pháp và phong tục thời ấy chấp nhận đa thê.

See the source image
Ninh  Hòa (thuộc Khánh Hòa, Nha Trang)


Những suy nghĩ về ngôi nhà làm tôi quên đường bay nhồi lên xuống. Tôi thấy êm ả và yên ôn với ý nghĩ cha đã làm cho mẹ cái gì êm ả. Từ đáy sâu của lòng mình vẫn dội lên những giây phút sợ hãi. Cái sợ ấy làm tôi thấy mình nhỏ lại đang sống trong vòng tay của chị, bên cạnh cái đăm chiêu của cha.

Tôi hoảng sợ, nhìn qua bên trái mới biết từ Huế, người ngồi bên cạnh là một thiếu nữ rất đẹp, có thể đang làm việc ở tòa tỉnh. Tôi hỏi:
"Bây giờ ngang đâu rồi cô".
"Thưa không biết nhưng bên dưới là bờ biển".
" Nha Trang đó" tôi nói với tất cả chắc chắn.
"Sao ông biết, ông có nhìn xuống đâu mà biết".
"Tôi biết chứ. Nha Trang, bờ biển Ninh Hòa đấy, chị tôi ở đấy, chị tôi lấy chồng lính ở đấy đã lâu".

Cô ta nhìn tôi một cách lạ lùng, có lẽ cho tôi điên rồi. Tôi thấy ngượng, mà thôi giải thích làm gì. Tôi giờ nầy vẫn sống trong vòng tay của chị, người chị là mẹ và có nét giống mẹ. Tôi đã mất đi cảm giác sợ cha mới trổi dậy lúc nãy với ý nghĩ chị đang ở bên bờ biển Nha Trang. Tôi ngã người ra lưng ghế êm nhắm mắt ngủ.

Và tôi ngủ ven bờ biển dưới kia nơi có chị đang sống với nhà chồng. Người chị ấy, người chị có vòng tay rộng lớn hơn vũ trụ của tôi, người làm chủ không gian tâm cảm của tôi, người mẹ thực sự từ khi cha chết.-

Vuong Tuyet Nga's photo.





Friday, November 23, 2018

12 Năm Tình Lận Đận




Người ta có thể thương nhiều người nhưng YÊU chỉ có một người.
Điểu Du Nguyệt (TS5)

Điểu Du Nguyệt
Ngày 30/04/1975, lúc Ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tôi đang ở khu định cư dành cho dân Phước Long ở quán chim Long Thành, tôi rầt buồn và cũng rất bình tĩnh hơn bất cứ lúc nào, sẵn sàng đón nhận mọi bất trắc có thể xảy ra!
Trước đó một tuần, tôi cùng một số cán bộ đã ra Vũng Tàu, không hiểu tại sao tôi lại có quyết định trở lại Quán Chim để rồi không ngờ cầu Vạn Kiếp và Long Thành bị đánh, tôi kẹt ở giữa?

Sau đó tan hàng, hồn ai nấy giữ! Súng được tháo ra vứt mọi nơi, trà trộn vào đám người chạy loạn về Saigon…. Cũng nhờ thẻ sinh viên mà tôi còn giữ lại nó đã giúp tôi qua bao trạm du kích địa phương trên đường về Saigon.

Khủng khiếp nhất là quãng đường ở làng cô nhi Long Thành, những xác chết trên đường trong lô cao su, quần áo vương vãi khắp nơi, mùi hôi tanh nồng nặc, khiến tôi lợm giọng! Tôi đã từng bị trận Phước Long nhưng chưa thấy hình ảnh nào khủng khiếp như thế! Cái giá của Hòa Bình khủng khiếp thật!

Về đến Saigon, ở nhà anh tôi tại chợ Nancy, đi vòng vòng thì gặp thằng bạn học cũ, Mai Phát Vĩnh, nó đạp xe chở tôi ra chợ Bến Thành nhìn dòng đời thời CS, những tên 30/04 đeo băng đỏ, chạy đôn đáo, chỉ điểm; những đứa con nít mới 13-14 tuổi cầm súng bắn vô tội vạ, những mâu thuẫn cá nhân cũng được giải quyết không cần luật pháp của cái buổi giao thời! Những tay bộ đội miền Bắc mới vào ngơ ngơ ngáo ngáo!

Đi ngang qua dinh Độc Lập, bộ đội tắm rửa trên sân cỏ, phơi đồ bất cứ chỗ nào họ thích…v…v… Mân mê chiếc xe đạp; âu yếm cái đài; vuốt ve cái đồng hồ 3 que, 2 cửa sổ, 12 đèn; ngồi kiểu nước lụt bên ly cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc”! Tội cho họ, một chủ nghĩa đã đẩy lùi cả một thế hệ! Nhưng tôi vẫn ghét hơn cả là lũ theo đóm ăn tàn 30/04.

Một tuần lễ sau, họ phát loa phóng thanh kêu gọi trình diện, tôi trình diện tại Trường Trần Hưng Đạo trên đường Trần Hưng Đạo Sàigòn.

Mọi người tấp nập trình diện, không khí nặng nề, ngờ vực, nghi kỵ; biết nhau nhưng coi như người xa lạ! Những bộ đội Bắc cầm AK-47 đứng canh từng góc trường. Lên lầu hai, họ phát cho mỗi người mỗi tờ giấy học trò.. người cán bộ nói như một cái máy “…với chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, Các anh phải thành thật khai báo với Cách Mạng….”.

Ai nấy cũng cắm đầu viết, tôi viết ngắn gọn, mà tôi cũng chẳng có gì để viết! Một năm làm việc không bằng thời gian mấy xếp tôi nghỉ bịnh. Nhìn trong phòng toàn là tướng, tá… ; tổng giám đốc, giám đốc của các phủ, bộ… Có ông Lê Hồng Tuấn, Tổng Giám Đốc Bộ Phát Triển Sắc Tộc mới ở Mỹ về chưa được một năm!

Chờ cho vài người nạp bản tự khai rồi tôi mới nạp. Người cán bộ đọc xong bản tự khai rồi yêu cầu tôi ở lại và ngồi chờ. Tôi thầm nghĩ, không biết chuyện gì đây? Tôi biết tôi nên khai những gì? Khoảng 20 phút sau, tôi được gọi ra ngoài hành lang thì thấy để sẵn một cái bàn nhỏ và hai cái ghế, một người cán bộ già trạc tuổi trên 60, đeo cái xắc-cốt cũ lâu năm lên nước bóng loáng, lưng đeo cây K-59 ở giữa mông!

Ông ta ăn nói rất lịch sự, mời tôi ngồi và chìa hộp thuốc lá 555 bằng thiếc đã bạc màu, nhưng bên trong là những điếu thuốc lá đen. Tôi từ chối vì không biết hút thuốt lá, sau một hồi vòng vo, ông có vẻ hiểu rành về Phước Long và hỏi tôi về những viên chức tại Phước Long. Nhưng tôi trả lời tôi làm ở cơ quan sắc tộc, chỉ lo những vấn đề xã hội liên quan tới đồng bào sắc tộc. Ông nói: “tôi không tin nó đơn giản như vậy?”. Sau hai giờ không khai thác được gì, ông cho tôi về suy nghĩ lại và ngày mai lên gặp tiếp? Sau ba lần, cũng chỉ có thế! Ông trao cho tôi một tờ giấy đã trình diện do tướng Cao Đăng Chiếm, chủ tịch quân quản thành phố Saigon ký và nói tôi phải trình diện tại địa phương.

Hai ngày sau tôi đón xe lam về Bình Dương, xe chạy đường trong. Nhìn hai bên đường, thỉnh thoảng thấy những bộ đồ lính, cả những nón sắt vứt ven đường, lòng đau như cắt! Nhìn đám lục bình trôi, bên trên đám ruồi bay nhặng xị, mùi hôi thối nồng nặc vì những xác người chết; tôi biết đó là những kết quả của những cuộc thanh trừng tại địa phương!

Về đến Bình Dương, Mẹ tôi ôm tôi khóc nức nở! Chiều đó trời mưa nhiều, chị hàng xóm bắt được một số cóc, đem nấu cháo. Lần đầu tiên trong đời ăn cháo cóc, ngọt và ngon thật. Phải chăng vì sự thiếu thốn hay không của những ngày đầu thống nhất!

Vài ngày sau, tôi quyết định về Bình Long vì tôi biết Bình Dương với tính cực đoan của dân Phú Hòa Đông, những cuộc thanh trừng thù oán cá nhân đã xảy ra hằng ngày!

Trên chuyến xe đò về Bình Long, những dấu vết chiến tranh vẫn còn vương vãi bên đường qua cuộc di tản! Những người ngồi trên xe im lặng, mỗi người một tâm trạng lo âu, nghi kỵ, sợ sệt! Không biết cuộc đời sẽ về đâu? Qua Lai Khê, rồi Chơn Thành, ngã Ba Xa Cam…Người đầu tiên mà tôi gặp là Thành mập (Phạm Ngọc Thành) đang leo trên cổng bằng sắt trước khi vào Bình Long treo cái bảng “Không có gì quý hơn Độc lập Tự Do”.

Đến bồn nước tròn ở chợ cũ, tôi tạm trú tại nhà chị Tư Bê, hôm sau cùng anh Sửu, bảy Đại lấy xe lam đi gỡ tôn để làm nhà, trên mảnh đất của Trường Tiểu Học Thượng. Ngày nào cũng nghe tiếng nổ, cũng nghe tin có người chết hay bị thương vì nổ trái vỉ. Bình Long là vùng đất của bom đạn còn lại trong chiến tranh.

Tôi gặp những người bị lùa trong cuộc chiến 1972, còn gọi là bộ đội “Khóc”, họ nhìn tôi với cặp mắt đầy nghi kỵ như người xa lạ, mặc dù đã biết nhau học cùng trường THBL hay cùng lớp!

Trình diện Năm Thanh, Hai Tấn chủ tịch quân quản huyện Bình Long thời đó, họ tịch thu giấy của Cao Đăng Chiếm và nói tôi không được đi ngoài khu vực phạm vi huyện Bình Long. Ngày lại ngày, cơm với cá khô đù, đọt ổ qua rừng chấm mắm nêm.

Hai tuần lễ sau, một thằng nhỏ du kích tới thông báo ngày mai đến nhà thờ Bình Long để đi học tập cải tạo, quán triệt chính sách và đường lối của Đảng và nhà nước. Đêm đó, tôi và Mẹ tôi trằn trọc không ngủ trên tấm ván lượm được, nhìn lên mái nhà lỗ chỗ những mành đạn pháo, thấy tương lai mù mịt! Tôi thầm nghĩ thôi thế thì thôi, cứ thả nổi theo giòng đời!

Ngày 20 tháng 05 năm 1975, vào Lúc 8 giờ, tập trung trong nhà thờ Bình Long. Sau khi điểm danh xong, đoàn người trật tự leo lên hai chiếc xe GMC. Trong chuyến áp tải có cả Hồ Sĩ Đạt, đeo cây M-79, mặc bộ kaki vàng, quấn chiếc khăn rằng với mũ tai bèo. Nó là bạn cùng lớp, bị bắt đi bộ đội năm 1972. Bên kia đường, trước nhà thờ là những thân nhân đứng tiễn người đi. Tôi thấy Mẹ tôi đang đứng chỗ sạp bà Ba Rổ, ngóng tìm tôi cho tới khi đoàn xe mất hút!

Đoàn xe di chuyển, mọi người ngồi dưới sàn xe, không ai được đứng dậy, được lệnh “nếu ai đứng dậy sẻ bị bắn bỏ”.

Đường dằn dữ dội, có những lúc xe như nhẩy nhổm lên! Chỉ biết xe đi hướng Lộc Ninh, rồi qua Bù Đốp, gần đến cầu Hoàng Diệu, xe quẹo vô rừng. Không biết họ làm gì đây, đi học tập hay đi tàu suốt như Huế năm Mậu Thân? Không có gì họ không dám làm! Thôi tới đâu thì tới!

Lúc đó khoảng ba giờ chiều, trong rừng già trời âm u. Mọi người xuống xe, tôi đơn giản với bộ đồ bà ba đen (đồ CB/PTST), cái bao vải đựng vài bộ đồ, cái võng lính (qua Mỹ tôi vẫn còn mang theo), lon gô mắm ruốc xào xả ớt, tất cả bày ra để cán bộ kiểm tra…

Bỗng có tiếng “Thằng Mười vô rồi!” đây là thứ của tôi, nhìn qua thì thấy thằng Chí, ở ấp Thánh Mẫu, nó bị bắt năm 1972, rồi vô CA. Kiểm soát xong, tôi được vô trại.

Thật kinh khủng, nhìn những tù cũ, da thì xanh xao vàng vọt, thân như những bộ xương cách trí! Gặp anh tôi, anh ấy về Lộc Ninh trước nên vô trước! Trại giam được làm bằng lồ ô, mái lợp lá trung quân.

Gặp nhân viên cũ, họ cho tôi mấy ống lồ ô, hai ngắn (đi cầu), hai dài (một đựng nước, một đi tiểu). Vô phòng, có trưởng phòng hướng dẫn nội quy. Tối ngủ phải cùm, cùm là một thanh cây có khoét lỗ tròn đút cổ chân vào, có một thanh cây nữa chận bên trên, được khoá ở ngoài cửa. Phòng được đốt một đống lửa, nếu cháy phòng không biết sao mà chạy, vì chân bị cùm!

Vào trại, cùng các giáo sư: thầy Huấn, thầy Bê và thầy Lai…. sau này thầy Huấn bị điên, bị nhốt dưới hầm sâu (đó là một cái hầm đào cạnh phòng giam, nó được đào giống chữ L, sâu khoảng 3.5 m, dưới lót ván, can phạm ngồi phải khom, chân bị còng chữ U bằng sắt). Mỗi lần nổi cơn điên, thầy Huấn lấy phân trét cùng đầu, mình mẩy. Họ cho thầy làm bộ! Chúng tôi chỉ biết nhìn nhau mà thôi. Thành phần hỗn hợp, phe ta, phe địch, chiêu hồi, gián điệp… Gặp Sương Lộc Ninh, làm thợ rèn, bị bắt sau khi Lộc Ninh bị chiếm năm 1972, biết nhưng chỉ dám nhìn nhau!

Sáng, gõ kẻng thức dậy, ăn sáng, đi làm. Thức ăn chỉ khoai mì lát mốc meo vẫn phải ăn và chỉ ăn với nước muối pha loãng! Không có muối hột vì họ sợ dự trữ để trốn trại. Cái đói và cái sốt rét ác tính, đây là hai bài học phải học đến chết với những người tù tại trại giam C-5 sông Măng này!

Lúc đó, ông Năm Hùng làm trưởng trại, Hải (hậu cần), Hận (chấp pháp). Không biết có ai còn nhớ đến người bán cà-rem, chạy xe đạp, tính tình vui vẻ, mỗi lần dừng xe hay nhổng đầu xe đạp và quay 1 vòng, có lần bán trước trường tiểu học An Lộc bị ông Hai Bon, bán nước cho học trò, đánh lỗ đầu vì cạnh tranh mua bán. Tay Hận này vẫn nhịn nhục. Nhà ở khu bánh bèo Biên Thùy, sau đó bị bắt đưa ra Côn Đảo và được trao trả Tù Binh tại Lộc Ninh; giờ về làm chấp pháp Trại C-5 sông Măng.

Mỗi sáng, sau khi gõ kẻng, CB đừng trước phòng điểm danh, mọi người phải la to “thưa ông cán bộ có”, phải gọi CB bằng “Ông”! Mở cùm, tuần tự ra khỏi phòng, dẫn đi vệ sinh, khu vực phía sau trại. Sau đó, tập họp, ăn sáng gồm một chén khoảng 6 miếng khoai mì lát! Xong, phân công từng toán đi làm: phát rừng, làm rẫy, khiêng cây về cho đội cưa xẻ trong trại, 8 người khiêng một khúc cây, khiêng không nổi bớt còn 6 người! Những bước đi xiêu vẹo trên những thân xác đói ăn, bệnh hoạn, vì sốt rét ác tính! Tất cả các bịnh chỉ có thuốc “Xuyên Tâm Liên”. Anh Ngô Công Vì, thuộc cán bộ XDNT/BL, coi võ đường Hắc Long gần quán bánh bèo Biên Thùy và rất nhiều người khác chết ở trại nầy khiến Năm Hùng phải đổi hướng cổng trại. Tôi còn nhớ có người lính BV, trung úy CS, tên là Nguyễn Xuân Trường, kỹ sư hóa chất, tốt nghiệp tại Trung Quốc; cha là CB cao cấp trong ngành ngoại giao ngoài Bắc, bị tội giết người vì bị kiểm điểm! Lúc nào cũng đội cái mũ biệt kích mà anh rất thích. Sau anh bị bịnh sốt rét, nằm một chỗ, hai mông lở loét, bị nhiễm trùng, sau đó bị khoét sống to bằng miệng chén, chịu không nổi, phải chết! xác được quấn chiếu, chôn cô đơn một góc rừng già!

Có một hôm, CB trại gọi tôi lên làm việc. Thắng, CB trại dẫn đi ngang qua cái chòi, tôi biết chòi này đặc biệt nhốt mục sư Điểu Huynh, đến nhà CB Hận chấp pháp, sau 1 lúc trò chuyện không đâu, hắn mang tô cơm có cá kho tiêu cho tôi ăn và ngon chưa từng có! Sau những tháng ngày chỉ khoai lát nước muối! Xong, hắn cho tôi về trại, thằng Thắng đưa tôi về… đơn giản có thế sao? Đến giờ nghĩ lại, tôi còn “lạnh gáy”, dọc theo đường nó bắn và cho rằng tôi trốn chạy thì sao?

Khoảng 3 tháng sau, trại được chuyển về sở Nhỏ gần Bù Đốp, tôi cùng một người được đặc biệt đi xe GMC, còn những người khác phải đi bộ! Trại này thoáng hơn, xung quanh là rừng cao su. Hôm đó, tôi đang lên cơn sốt rét nằm ở phòng, bỗng nghe tiếng gọi “Mười đó hả?”. Mấy chục năm rồi tôi vẫn nhìn ra “nó”, từ ngày nó vô rừng! Ngó quanh quất rồi nói “thôi mầy ráng cải tạo tốt rồi về”, và thảy cho tôi hai gói Sàigòn Giải phóng, thời điểm đó thuốc này rất hiếm!

Một tuần lễ sau, Năm Hùng gọi tôi lên văn phòng trại thì không ngờ gặp Mẹ tôi đến thăm. Tôi là người đầu tiên được thăm, nhìn Mẹ tôi với khuôn mặt khắc khổ, già nua, tóc bạc đi rất nhiều! Những giọt nước mắt của tôi từ từ chảy xuống, không hiểu tại sao? Tôi đã bị những trận tận cùng nhất, tôi cũng chưa bị như vậy! Hỏi thăm cuộc sống bên ngoài thế nào? Tôi biết Mẹ tôi dấu tôi! Trò chuyện chừng 20 phút, tôi được báo hết giờ! Không hiểu sao họ không cho anh tôi được ra thăm Mẹ tôi? Ra ngoài, tôi sững sờ thấy người lái xe Honda chở Mẹ tôi là anh T. bị kẹt lại Lộc ninh năm 1972?

Ở sở Nhỏ hai tháng tôi, anh tôi cùng một số chọn lọc được chuyển về khám đường Bình Dương, trên đường về xe ghé Bình Long. Xe đậu ngay chỗ tiệm sửa xe Thanh Hải cũ, ngồi dưới sàn xe nhìn qua khe hở của tấm bạt, tôi thấy vài người quen nhưng không dám gọi.

Khám đường Bình Dương là trung tâm cải huấn Bình Dương cũ, gần tòa hành chánh BD cũ, nay là VP/UBND tỉnh BD, trại giam này do Ngô văn Thới (Ba Thới) làm chủ ngục, Hai Khánh (Khánh Thọt) làm chấp pháp. Vào bên trong trại, mọi người xếp hàng kiểm tra, họ tịch thu mọi thứ: dao, đũa, dây… những thứ có thể gây thương tích hay tự sát.

Hơn 80 người trong một căn phòng nhỏ, dài 8 m, ngang 5 m. Phải ngủ ngược đầu hay ngủ ngồi. Có những lúc trời nóng, phải cởi trần hay ở truồng, mùi thối vì hơi người, quần áo giặt không cần phơi cũng khô! Trong phòng có những lúc phân, nước tiểu tràn ra phòng! Chính CA cũng phải bịt mũi mỗi lần nhìn vô phòng để kiểm tra. Chúng tôi còn tệ hơn súc vật! nước uống mỗi người 0.75 lít/ngày, khoai lát hoặc bo bo, bắp cải luộc nước muối trường kỳ kháng chiến! Một tháng sau ai nấy ghẻ cùng người, cả hai bàn tay cũng bị! Khi tắm phải lấy bao nilon bao lại vì nước vô rất rát! Chỉ trị ghẻ bằng nước thuốc lào! Mỗi sáng thức dậy, giũ chiếu, quét phòng, mày ghẻ gom lại cả hơn hai chén cơm! Và điều khủng khiếp nhất là có người đói quá không chịu được đã lấy mày ghẻ dấu để ăn như ông tên là Thiêm!

Có hai người bị án tử hình, chưa đem bắn đã bị suy nhược đói và chết như: Socnuoi (nghi là gián điệp Pol Pot, thật ra anh này Pol Pot nhưng lấy vợ VN, đưa vợ về Bù đốp vì sợ Pol Pot giết, sau đó trở lại tìm vợ thì bị bắt), còn Điểu Bluc, xã đội trưởng du kích Đức Phong, bị nghi là tình báo Mỹ? Còn tôi cũng bị Hai Khánh đặc biệt quan tâm. Có lần hắn gọi tôi lên thẩm tra, cho rằng không thật thà khai báo!

Trong phòng hắn hỏi “Mầy biết B- 52 không?”, xong hắn lấy bao nilon đốt cho chảy rồi nhễu từng giọt xuống các đầu ngón chân, trong khi hai chân đang bị cùm! Lúc đầu rát điếng người, tê dại hai chân… Hắn cười rất khoái chí, cái nụ cười dã man của một con thú đội lốt người! May tôi là tù đã trình diện cải tạo, không thì xong đời!

Tuần lễ sau được trả về phòng lớn, hai chân bị liệt, tê dần từ đầu ngón tay lên vai; hai chân thì từ đầu ngón chân lên tới rốn! Có lần được đưa ra phơi nắng cùng người đã già tên là Mai vượt biên đường Bù Đốp bị bắt. Những người được đem phơi nắng là sắp “Vẫy tay chào em!”, lúc đó anh đút cháo cho tôi, đút vào cháo lại trào ra; đôi lúc mê sảng, cũng may Trời cứu!

Một tuần lễ sau tôi được chuyển Trại đi K-3 Gia rai, Long Khánh, gồm 13 người và được mệnh danh là 13 con ma, vì mình ghẻ lở, được bôi Lưu huỳnh cho tróc mày ghẻ, ai nấy cũng đen còn hơn cả những đặc công!

Trên chuyến xe chuyển đi K-3 Gia ray, Long Khánh, lên xe đã thấy có anh Võ Tấn Vinh (Phó Tỉnh BL, sau về làm PTT/BD) từ trại nhà Đỏ BD nhập chung. Trại K-3, nằm trên đồi tên Phượng Vỹ, thuộc Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18BB.

Vô trại, tôi được chuyển lên trạm xá, cũng nhờ anh Lê Phước Chỉ (đại úy) tận tình giúp đỡ và châm cứu, 15 ngày sau tôi chống gậy đi lại được. Một tháng sau tôi được thăm nuôi, anh tôi vẫn phải cõng tôi xuống núi! Gặp Mẹ tôi, nhìn Mẹ với 2 hai hàng lệ chảy dài trên trên đôi má nhăn nheo của Mẹ già, lòng tôi đau như cắt! 15 phút trôi qua như gió thoảng, thế rồi giã từ qua tiếng nghẹn ngào của Mẹ tôi! 

Hai tháng sau, anh tôi được chuyển ra Bắc, qua ngã Tân Cảng, bằng Tàu Sông Hương, tôi được ở lại vì còn bị liệt hai chân!

Rồi bỗng một hôm, trực trại gọi tôi có thăm nuôi, anh tù phụ trách thăm nuôi dìu xuống núi, nhìn cuối bàn thăm nuôi thì không ngờ gặp lại cô ấy, tôi không ngờ! Cả hai đứng như trời trồng không nói nên lời!

Thì ra T., nhìn hai dòng lệ trên khuôn mặt lam lũ, phải bon chen giữa dòng đời nghiệt ngã của buổi giao thời. Nhưng đôi mắt vẫn buồn và đẹp như thuở nào…

“…Cậu Mợ khỏe không?”, “Cuộc sống em thế nào? ”, “Không biết bao giờ anh về? Hãy coi nhau như người bạn tốt…”, “Em nên lấy Chồng…!”. Nắm đôi bàn tay không còn mềm mại như ngày nào! Lâu rồi đời mình cũng quên, nhưng có quên được đâu!


Điệp viên – Phạm Thành Châu

Truyện ngắn “Vợ Chồng Điệp Viên” tác giả Phạm Thành Châu – ĐS14.
Học xong trung học, tôi thi vào Đại Học Sư Phạm ban Anh Văn. Trong thời gian là sinh viên tôi còn làm việc cho số 3 Bạch Đằng. Đó là cách nói gọn của phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa. Tôi làm tình báo vì có máu phiêu lưu, thích chuyện mạo hiểm, sau nầy lại thêm mối thù Việt cộng giết cha tôi. Ông già tôi là chủ một nhà máy xay lúa nhỏ ở vùng quê tỉnh Bạc Liêu. Vì là vùng bất an ninh nên phải đóng thuế cho việt cộng, ấy vậy mà cũng bị chúng nửa khuya đến gõ cửa đem ra đồng bắn bỏ. Cả mấy năm sau, tôi cố tâm điều tra mới biết rõ thủ phạm là một tên nằm vùng trong xóm, chỉ vì một xích mích nhỏ, hắn dẫn đồng bọn về giết người. Dĩ nhiên tôi trả thù. Sau khi tốt nghiệp sư phạm, trong lúc chờ sự vụ lệnh, tôi lẻn về nhà trốn trong phòng không cho hàng xóm biết, đến khuya tôi đến nhà hắn, nằm sau hè chờ. Ở thôn quê không có phòng vệ sinh trong nhà, khi cần thì ra sau vườn. Qua đêm thứ hai hắn mở cửa ra đi tiểu, tôi chĩa súng vào lưng hắn.
– Đồng chí ra ngoài kia trả lời trước tổ chức về vài việc cần gấp.
Hắn sinh nghi định phản ứng, tôi giáng cho một bá súng vào đầu, hắn bất tỉnh, tôi cột chân tay hắn, cõng trên lưng, ì ạch băng đồng ra chỗ bọn chúng giết cha tôi. Tôi khai thác tận tình cho đến khi hắn thú nhận tội giết cha tôi, lúc đó tôi mới cho hắn biết sự thật. Hắn van lạy, nhưng vô ích, hình ảnh cha tôi chết oan ức, mắt vẫn mở trừng trừng khiến tôi sôi gan. Sau đó gia đình tôi bán nhà máy xay lúa, bán nhà lên Sài Gòn ở.
Tốt nghiệp xong tôi được điều đi các tỉnh dạy học. Sau mỗi công tác tình báo dù thành công hay thất bại tôi lại chuyển qua tỉnh khác.
Câu chuyện bắt đầu khi tôi được giao cho việc theo dõi một cô thợ may ở ngoại ô một thành phố ven biển miền Trung. Nguyên nhân là thỉnh thoảng lại có truyền đơn rải vào buổi sáng trên con đường vào thị xã. Đây là con đường mà đa số nông dân thường đem nông sản vào chợ bán. Họ chở bằng xe đạp, xe lam hay xe bò. Sáng sớm nào cũng có cảnh sát rình ở đó nhưng chẳng thấy ai đáng tình nghi cả. Sau phải cho người nằm sát lề đường mới khám phá ra một cô gái đi xe đạp chở rau muống phía sau, dưới chân chỗ bàn đạp để mớ truyền đơn, cứ dỡ nhẹ chân là truyền đơn rơi xuống đường khó mà thấy được nhất là ở quãng đường tối. Qua điều tra đây là cô thợ may nhà ở vùng ngoại ô, sát địa giới thành phố. Sau nhà là một vạt ruộng nhỏ trồng rau muống, mỗi sáng cô chở rau vào chợ bán sỉ cho bạn hàng rồi về ngay. Cô sống với một mẹ già hơn sáu mươi tuổi. Gọi là tiệm chứ thực sự là một bàn máy may phía trước, cách một tấm vách cót là giường ngủ của hai mẹ con vừa làm chỗ thử áo quần. Gia đình nầy mới từ một quận miền núi về hơn một năm nay. Theo báo cáo, trước đó cô là nữ sinh trung học, sau theo nghề may. Tiệm của cô khá đông khách vì cô hiền lành, vui vẻ lại lấy công rất rẻ, có lẽ đây là trạm giao liên hơn là cơ sở kinh tài của địch.
  (Cô thợ may và bà mẹ)
Nhiệm vụ của tôi là tìm cách tiếp cận cô để theo dõi. Tôi sẽ đóng vai một kẻ si tình cô, gặp gỡ cô mà bọn chúng không thể nghi ngờ, hoặc tốt hơn nữa sẽ được móc nối làm việc cho chúng. Một buổi sáng Chủ Nhật tôi chạy xe gắn máy gần đến nhà cô thì xe chết máy phải dừng lại sửa. Tôi vào tiệm xin cô miếng giẻ rồi loay hoay mở máy ra chùi, thay bu gi, tháo bình xăng con… toát mồ hôi mà xe vẫn không nổ. Tôi xin cô miếng nước uống và ngồi trước hiên nhà cô hỏi vài câu vơ vẩn rồi dẫn xe về. Qua hôm sau tôi đem một xấp vải đến nhờ cô may cho một áo sơ mi. Lần nầy tôi được cô mời vào nhà vì tôi là khách. Thế rồi, thỉnh thoảng tôi lại nhờ cô may một thứ gì đó và tôi ngập ngừng nói là tôi làm thế để được dịp gặp cô, không gặp tôi nhớ. Cô có vẻ bất ngờ, nhưng yên lặng. Những lần sau cô lại càng giữ ý, nhưng tôi bắt gặp trên đôi mắt cô mỗi khi thấy tôi, long lanh niềm vui. Trong lúc trò chuyện tôi cho cô biết về gia đình tôi rằng ông già tôi tham gia mặt trận bị quân đội Quốc Gia hành quân bắn chết. Thỉnh thoảng tôi đi chùa nghe thuyết pháp hoặc tham gia mít tinh, tôi phát ngôn bừa bãi ra người bất mãn chế độ. Sau một thời gian lạnh lùng, giữ kẽ, cô có vẻ thân thiện, vui vẻ hơn. Kẻ thù trong bóng tối đang kéo dần con mồi về phía chúng, tôi biết mình đã được để ý, nhưng chỉ đến đấy thì hầu như bế tắc, tôi không biết được những gì chúng tôi cần.
Một sáng Chủ Nhật, như thường lệ tôi đến thăm cô, nhưng đến nơi chỉ thấy một đống tro tàn đang bốc khói. Thì ra, không hiểu vì sao lúc khuya lửa bắt cháy, hai mẹ con chỉ kịp chạy thoát thân. Tôi khuyên nhủ nhưng cô vẫn lắc đầu lo lắng.
– Tiền mua bàn máy may, mua miếng đất em trả chưa hết nợ, còn quần áo của khách nữa, họ nói bao nhiêu phải cố mà trả. Nhưng em còn đồng nào đâu!
Tôi hứa với cô là sẽ hết lòng tìm cách giúp đỡ. Thế rồi tôi về bán chiếc xe gắn máy. Nhờ bà con chung quanh phụ giúp nhặt nhạnh những miếng tôle còn xài được, mua ít vật liệu, dựng lại căn nhà mới cũng khang trang, ngoài ra còn mua được một bàn máy may mới nữa. Chỉ trong một tuần tôi lo toan cho cô chu toàn. Từ đấy thái độ của cô đối với tôi thay đổi hẳn. Chúng tôi thường đưa nhau đi xem hát, ăn quà rong, đôi khi cô đến nhà trọ thăm tôi nữa. Mỗi khi đi với nhau cô thường chải chuốt, thoa chút phấn hồng trên má, trông cô đẹp hẳn ra, như lột xác từ một cô thợ may lọ lem thành một nàng tiên, nhưng đối với tôi, đi bên cô, nhất là những chỗ vắng, tôi có cảm giác rờn rợn, tưởng như mình đang đứng trước đỉnh đầu ruồi của một họng súng nào đó trong bóng tối. Vì nghề nghiệp, lúc nào tôi cũng cảnh giác, ngụy trang, dọ dẫm tìm một chỗ an toàn phía sau lưng.
Một lần cô ghé nhà trọ thăm tôi, có một bà hàng xóm biết cô là thợ may đến năn nỉ cho con gái học nghề may. Cô là học sinh thi hỏng tú tài, muốn theo nghề may để phụ giúp gia đình. Nghe tôi nói thêm vào cô ta có vẻ bằng lòng nhưng hẹn ít hôm nữa mới trả lời, có lẽ chờ quyết định của tên đầu sỏ, chỉ huy cô. Tuần sau cô đồng ý nhận học trò. Được độ ba tháng nhờ sáng ý, cô bé học nghề khá tiến bộ. Tiệm may cũng đông khách hơn trước. Một hôm tôi gọi riêng cô bé hàng xóm qua nói chuyện. – Em học nghề may với chị Lan đến đâu rồi?. – Em cắt chưa vững nhưng may thì khá lắm, khách nào cũng khen đường chỉ em thẳng, mịn và đẹp. – Có lẽ cần một máy may nữa mới phụ chị Lan kịp giao hàng cho khách. – Em cũng nghĩ vậy nhưng không có tiền. Tôi tâm sự với cô học trò: – Như em biết, thầy và chị Lan yêu nhau, dự định sẽ làm đám cưới, nhưng thầy còn ngại hình như chị Lan đang yêu ai nên thầy nhờ em giúp thầy tìm hiểu chị Lan xem có ai đến thân mật chuyện trò với chị ấy không? Em sẽ chẳng làm gì cho chị ấy nghi ngờ. Thầy có cái máy nầy, sẽ giấu dưới xách tay của em, khi đến nơi, em chỉ cần mắc xách tay sau lưng chỗ ngồi của em sát vách với phòng thử áo quần. Chỉ thế thôi, đừng cho bất cứ ai biết chuyện nầy. Nếu chị Lan hay ai bắt gặp cứ bảo rằng đó là máy thu thanh, thầy sẽ chỉ em cách mở nghe đài phát thanh. Em cũng đừng cho chị ấy biết là thầy cho em mượn tiền mua máy may, sợ chị nghi ngờ, ghen tuông phiền phức.Thế là chúng tôi nghe rõ những trao đổi, bàn bạc với nhau của bọn chúng trong phòng thử quần áo. Một bộ phận khác rình thu hình những khách hàng khả nghi và tiến hành điều tra. Chúng tôi gần như nắm vững tất cả những tên nằm vùng, cơ sở kinh tài, nơi chứa chấp những tên xâm nhập nữa, nhưng tên đầu sỏ vẫn chưa tìm ra!?
Trong nghề nầy, một chút sơ ý là chết. Như cô thợ may, bị chúng tôi theo dõi mà không hay biết. Cô với tôi như hai tay nhu đạo đang lừa nhau để vật đối thủ xuống, cô đã bị thất thế hoàn toàn, nhưng tôi chưa ra tay và chờ cô ra đòn. Có thể cô làm bộ chuyện trò, hỏi han để tìm hiểu tôi hoặc rủ tôi một chiều nào đó ra vùng quê hóng gió tâm sự…
Nhưng tuyệt nhiên chuyện đó không xảy ra. Cô lúc nào cũng ít nói, dịu dàng, nhưng như thế lại càng làm tôi e ngại và thấy cô rất bản lĩnh, rất nguy hiểm. Đi bên cô tôi cố làm vẻ sung sướng, hạnh phúc nhưng thật sự tôi có cảm tưởng cô như con rắn độc, chỉ một tích tắc cô hành động là đời tôi tàn ngay. Mạng tôi đổi mạng cô thì không xứng. Thế nên tôi chẳng hứng thú gì trong vai trò nầy cả. Tôi được lịnh phải tiến xa hơn tức là phải chung đụng xác thịt để giữ chặt con mồi, nhưng tôi không làm được. Dù cô có yêu tôi thực hay giả vờ tôi cũng quyết không đụng chạm đến nơi thiêng liêng đó của người con gái. Đó là điểm yếu của một tên tình báo non tay nghề như tôi.
Mùa hè năm đó, đối phương lên phương án tấn công tỉnh. Mẻ lưới được tung ra. Chúng tôi dự định hành quân vào lúc khuya. Buổi chiều cô bé học may về báo cho tôi biết là lúc trưa có một ông sư khất thực đến trước nhà, cô Lan ra cúng dường, ông sư lầm thầm tụng kinh chúc phúc như mọi khi, nhưng lúc quay vào, thấy mặt cô tái mét, người cứ run lên bần bật… Chúng tôi đề nghị cảnh sát hành quân sớm hơn dự định. Thế là cả bọn bị tóm, kể cả chính tôi cũng bị cảnh sát đến gõ cửa, còng tay, đẩy lên xe cây.
Thường thì sau khi vở kịch đã hạ màn như thế, tôi thảnh thơi nghỉ ngơi rồi nhận công tác mới. Nhưng không hiểu sao hình ảnh cô ta vẫn nguyên vẹn trong đầu tôi. Khi cô bị bắt, bị giam giữ, lòng trắc ẩn của tôi lại nổi lên. Đàn bà, con gái, trẻ con không có chỗ trong chiến tranh, họ phải được ở hậu phương, phải được thường xuyên che chở, bảo vệ. Một cô gái vô ý vấp ngã thấy đã động lòng rồi, huống gì cô thợ may hiền lành, dịu dàng kia đang bị nhốt trong nhà giam sau những song sắt như một con thú đã bị săn bắt, chờ ngày bị đem xẻ thịt. Tôi đã nhiều lần bí mật nhìn cô ủ rũ ngồi ở một góc phòng giam, héo úa như không có linh hồn, không còn cảm giác, suy nghĩ gì. Tương lai là chết rũ trong tù, tình yêu, hy vọng của tuổi thanh xuân coi như đã chấm hết. Đối với cô, tôi thấy thật bất nhẫn, lừa gạt một cô gái dù cô ta được điều khiển từ trong bóng tối. Và khi cảm tưởng cô không còn là kẻ thù của tôi nữa, sự cảnh giác đã được gạt bỏ, như bụi bặm trên một bức tranh đã được chùi sạch, để lộ ra hình ảnh trong sáng, dịu dàng của cô trong tâm trí tôi. Thế nên tôi đề nghị thả cô ra để cho những con mồi khác đến móc nối lại với cô.
Từ phòng giam, tôi lại được gọi lên để đối chất về sự liên hệ giữa tôi và cô. Chúng tôi xác nhận có yêu nhau nhưng chẳng biết gì về việt cộng cả và anh cảnh sát thẩm vấn (vờ) tin ngay là thật, anh hứa sẽ thả chúng tôi ra và anh bỏ đi làm giấy tờ. Tôi đến ngồi gần cô cầm lấy tay cô, cô ngước nhìn tôi và lắc đầu, có lẽ cô cho rằng lời anh thẩm vấn viên chỉ là cái bẫy, nhưng tôi cố tình cho cô hiểu tôi là người có thẩm quyền, tôi cứu cô ra vì tôi yêu cô.
– Như em đã nghe lúc nãy, anh xin bảo lãnh em và chịu trách nhiệm liên đới về những hành động của em sau nầy. Nếu em thương yêu anh thực lòng thì em hãy lánh xa những gì có thể gây nguy hiểm cho em. Em còn mẹ già phải nuôi dưỡng, rồi em sẽ lập gia đình, có con cái, sống hạnh phúc như bao người bình thường khác. Đừng dại dột nữa, không phải anh sợ bị vạ lây nhưng nếu em gặp chuyện không may anh sẽ đau khổ lắm. Anh sẽ thu xếp cho em và mẹ em vào Sài Gòn sống lẫn trong đồng bào thì sẽ không có ai quấy rầy em nữa. Chúng mình sẽ làm đám hỏi và khi nào anh vận động xin về dạy gần Sài Gòn sẽ làm đám cưới.
Cô cúi đầu yên lặng nghe, rồi cô nắm tay tôi đặt lên đùi cô, siết nhẹ. Một giọt nước mắt rơi trên tay tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Cô đã hiểu ý tôi. Cô viết cho mẹ cô một lá thư, dặn bán nhà để chuẩn bị về quê, chỉ giữ lại bàn máy may. Sau đó chúng tôi lặng lẽ về Sài Gòn. Nhờ bạn bè giúp đỡ, tôi tìm mua được một căn nhà nhỏ ở chợ Cây Quéo, góc đường Hoàng Hoa Thám, Ngô Tùng Châu Gia Định. Dĩ nhiên việc theo dõi cô không phải đã chấm dứt.
Công tác của chúng tôi thường được tình báo Mỹ yểm trợ. Người Mỹ rất hào phóng nhưng cũng rất nguyên tắc, họ đã vui vẻ trả lại tiền cho tôi mua lại chiếc xe gắn máy, trả cả những chi phí lặt vặt như đưa cô đi xem hát, ăn quà rong. Nhưng sau cuộc hành quân, hồ sơ coi như đã đóng. Lần nầy tôi lại bán xe, vay mượn thêm để lo cho cô mà không biết khi nào mới có tiền mua lại xe khác.
Suốt mấy tháng hè, tôi về Sài Gòn với gia đình. Buổi chiều tôi thường ghé thăm cô, có khi tôi ăn cơm tối với gia đình cô. Sau bữa ăn, bà mẹ dọn dẹp chén đĩa, còn cô thì xin phép đi tắm. Chợ Cây Quéo nằm trong một đường hẻm, sau khi tan chợ chiều, trở thành vắng lặng như ở một vùng quê. Sau nhà cô có một sân vuông nhỏ, rào kín chung quanh, tôi thích ra đấy ngồi xuống một ghế gỗ dài để chờ cô. Cô có một thói quen là sau khi tắm cô không mặc nịt ngực, nên qua lần vải mỏng, đồi ngực cô thẳng đứng lên, lồ lộ như hai mụt măng tre vừa chồi lên khỏi mặt đất. Cô ngồi cạnh tôi, nghiêng đầu dùng khăn vò mái tóc cho khô, chải nhẹ cho tóc thẳng, xong cô ngửa người vuốt mái tóc về sau lưng, rồi cô nhìn tôi mỉm cười. Tôi yên lặng ngắm cô, tưởng như thấy rõ làn da mịn màng, thơm tho của thân thể cô… Sau đó chúng tôi có một thứ quà rong như chè hay trái cây để vừa ăn vừa chuyện trò đến khuya mới chia tay.
Sau kỳ nghỉ hè tôi được chuyển ra Huế dạy học, tôi viết cho cô một lá thư dài và hẹn Tết sẽ về xin làm đám hỏi. Tính cô ít nói, ngay cả thư trả lời chỉ vỏn vẹn mấy câu “Được thư anh, em khóc mấy hôm nay vì vui mừng. Cám ơn anh đã hiểu em và lời hứa của anh lần nầy em tin là thật, bằng trái tim và cả cuộc đời em”.
Khoảng cuối năm đó tôi xin phép về Sài Gòn, khi đến nhà cô tôi ngạc nhiên thấy nhà đã sửa sang lại tươm tất. Cô dẫn tôi ra phía sau khoe một căn phòng vừa mới được xây thêm. – Mẹ ngủ phòng ngoài kia, em ngủ trong nầy. – Còn anh thì nằm dưới đất?! Cô đỏ mặt nhưng sung sướng. – Anh với em phòng nầy chứ.
Lễ hỏi chúng tôi diễn ra đơn giản, kín đáo. Gia đình tôi cứ tưởng tôi sẽ lập gia đình với một cô nữ sinh nào đó, không ngờ là một cô thợ may. Chẳng phải họ kỳ thị hay giai cấp gì mà theo lệ thường, thầy giáo rất dễ chọn vợ đẹp trong trường mình dạy. Nhưng khi gặp lần đầu, mọi người đều thích cô ngay. Cô vừa hiền vừa đẹp một cách thùy mị. Mẹ tôi cứ mẹ mẹ con con với cô ngọt xớt, các cô em gái tôi thì tíu tít hỏi han, trò chuyện rất thân mật khiến cô bối rối, vụng về vì cảm động. Từ đó gần như ngày nào tôi cũng đến nhà cô, đôi khi ngủ lại nữa, nhưng chúng tôi đã hứa với nhau phải giữ gìn, để dành cho ngày hôn lễ. Cô có những suy nghĩ lẩm cẩm rất đàn bà. Cô thêu những áo gối có hình quả tim, tên tôi và tên cô lồng vào nhau, hình đôi chim đang bay, rồi cô phân vân về tên của những đứa con trong tương lai. Tôi chế giễu thì cô giận, nhưng thâm tâm cô rất vui sướng với giấc mơ đơn giản đó.
Tôi bàn với cô vài tháng nữa sẽ làm đám cưới, nhưng rồi đầu năm bảy lăm miền Nam bắt đầu sụp đổ từng mảng, tất cả tan rã như bọt nước. Người ta ùn ùn chạy về phía Nam, tôi phải nấn ná lo tiêu hủy hồ sơ, phân tán mạng lưới nên vào đến Đà Nẵng lại đành quay về Huế vì miền Trung đã rơi vào tay đối phương rồi. Kẻ thù hình như chưa biết gì về tôi cả ngoài cái vỏ bọc thầy giáo trung học. Chúng bắt đầu gọi các cô thầy đến khai lý lịch và như đang sắp xếp mở cửa các trường học.
Thế rồi khoảng cuối tháng năm, năm bảy lăm, nửa khuya, chúng đến vây nhà trọ, gõ cửa, còng tay tôi dẫn ra xe. Thoạt nhìn, ngoài chiếc xe cảnh sát chở đầy bộ đội tôi còn thấy một xe mang số ẩn tế Sài Gòn, tôi biết  ngay bọn chúng đã tìm ra chính xác tông tích tôi. Nhưng tại sao trung ương lại không hủy hồ sơ?
Ngồi kèm tôi là hai tên bộ đội còn trẻ mang súng AK. Phía trước, bên cạnh tài xế là một người đàn bà. Xe chạy ra khỏi cửa Thượng Tứ, qua cầu Trường Tiền đến đường Duy Tân, chiếc xe chạy trước quẹo vào ty cảnh sát (cũ), còn xe chở tôi chạy thẳng, hướng về quốc lộ. Tôi đoán chúng đưa tôi về Sài Gòn khai thác. Tôi dự định thoát thân, nhưng đến gần phía Nam tôi mới hành động. Nghĩ thế nên tôi buông thả, thiu thiu ngủ dưỡng sức. Dọc đường xe phải ngừng ở các nút chặn, tên tài xế cũng là bộ đội trình giấy và nói gì đấy, ánh đèn loang loáng vào xe, rồi xe lại tiếp tục. Đến Quảng Ngãi trời đã rạng sáng, tôi lơ mơ mở mắt nhìn quanh. Bỗng tôi lạnh người khi nhận ra người đàn bà ngồi phía trước là cô thợ may, vợ sắp cưới của tôi. Hóa ra chúng tôi đã lầm trong điệp vụ vừa kể, tên đầu sỏ là cô ta chứ không phải gã thầy tu khất thực. Tôi cay đắng cười thầm mình thua trí một người đàn bà, cô đã ngụy trang một cách tài tình, không chỉ đánh lừa chúng tôi mà còn đánh lừa cả đến lũ chân tay của cô. Nhớ lại những ngày chúng tôi bên nhau, tôi sượng sùng, xấu hổ với cô. Cô đã đóng một vai kịch rất xuất sắc, rất bản lĩnh, tôi vẫn chỉ là một con mồi ngây thơ. Ấy vậy mà tôi cứ tưởng tình yêu chân thành của tôi đã cảm hóa được cô. Giờ đây cô ngồi đó, lạnh như tiền. Cô đang nghĩ gì về tôi, một tên điệp viên hạng bét, ngây ngô, lãng mạn tiểu tư sản?
Xe đến Bình Định, ghé vào một quán cơm bên đường, tôi được tên bộ đội mở còng nhưng dặn “Cần gì nói tôi, giữ khoảng cách năm bước, đến gần hay xa hơn, sẽ bị bắn bỏ” Tôi được dẫn vào ngồi một bàn ở một góc quán, mấy tên bộ đội ngồi hai bên, còn cô ta thì ngồi riêng. Sau bữa ăn, lúc trả tiền cô lôi ra một xấp bạc mới tinh, rút vài tờ vất đấy, đứng dậy, không lấy tiền thối. Tôi cố tỏ ra sợ sệt và ngoan ngoãn để chúng tin, hy vọng đến chiều tối nếu cũng ăn uống như thế nầy tôi sẽ bỏ chạy rất dễ dàng và bóng đêm sẽ che chở cho tôi. Nhưng tôi đã lầm, xe chạy suốt đến sáng, đến ngã ba Hàng Xanh theo đường Bạch Đằng, rồi Chi Lăng, Ngô Tùng Châu và vào hẻm chợ Cây Quéo. Cô vào nhà một lúc lâu mới đi ra với bà mẹ. Hai mẹ con ngồi phía trước, xe lại tiếp tục trở ra xa lộ đến Biên Hòa quẹo hướng Vũng Tàu. Tôi đoán chúng sẽ truy tôi về công tác ở Vũng Tàu, Long Hải trước đây hoặc giao cho lũ nằm vùng, nội tuyến đã bị tôi đưa đi tù, và chúng sẽ mặc sức trả thù. Đến Vũng Tàu, ghé mua mấy ổ bánh mì thịt, xe vào một khách sạn hạng trung bình. Sau khi ăn uống, làm vệ sinh, tôi lại bị còng tay cho vào phòng riêng, phía ngoài là hai tên bộ đội canh cửa. Tôi nghe cô ta dặn hai tên gác là phải cảnh giác cao độ với tên địch nguy hiểm đó (là tôi), và cô đến ủy ban quân quản có chuyện cần, sẽ về ngay. Tôi mệt mỏi lăn ra ngủ một giấc lấy sức, dự định tối nay leo cửa sổ trốn đi. Cái còng không thành vấn đề, một cọng thép nhỏ là xong, và cọng thép đó đang nằm trong sợi dây đồng hồ mà tôi đã có được lúc tôi đòi đi tiểu ở hàng cơm ở Bình Định. Nhưng đến gần tối, sau khi được ăn một ổ bánh mì nữa, chúng lại còng cả chân tôi vào giường và hai tên bộ đội ngồi ngay trong phòng tôi, thay phiên nhau lõ đôi mắt cú vọ canh chừng tôi. Thế là hết đường trốn thoát! Nhớ lại thời gian hứa hôn chúng tôi sống bên nhau, cô đã dần dần hiểu tôi, trong sự săn sóc cô đón ý tôi rất tài. Lúc đó tôi sung sướng nghĩ rằng mình có được cô vợ toàn tâm toàn ý, bây giờ chính cái toàn tâm toàn ý kia lại hại tôi. Cô đã thấy được không sai chạy những gì tôi nghĩ trong đầu, dù chỉ vừa thoáng qua là cô đề phòng ngay.
Tối đó độ hơn mười giờ, tôi được dẫn ra xe, vẫn đủ sáu người như trước. Xe chạy loanh quanh trong thành phố một lúc rồi hướng ra Bãi Sau. Trời đêm đầy mây, lạnh kinh khủng, miền Nam chưa bao giờ lạnh như năm đó, đường vắng tanh, lờ mờ ánh đèn, tiếng sóng vỗ rì rào, buồn bã. Xe chạy đến cuối bãi thì dừng lại. Cô ra lịnh bịt mắt tôi lại.
– Đồng chí đưa tôi khẩu AK. Cứ ở đây chờ, khi nào nghe tiếng súng nổ tôi sẽ ra.
Và cô nói với bà mẹ, giọng lạnh lẽo, hàm răng rít lại.
– Mẹ phải theo con, xem con trả thù kẻ đã giết hại gia đình mình và bao nhiêu đồng chí khác nữa.
Đúng là oan oan tương báo. Tôi đã xử tội tên nằm vùng giết cha tôi ra sao, bây giờ tôi sẽ gặp y như vậy. Nhưng tôi không nhớ rõ mình đã làm gì để cô thù hận tôi đến độ giờ đây đem ra xử  bắn tôi, không lẽ cô là con của tên nằm vùng kia?!
Cô lên đạn, chĩa súng vào lưng tôi, đẩy tôi đi trước. Cô đã phạm một sai lầm chết người. Cô gí súng vào lưng tôi là giúp tôi nắm được quãng cách giữa cô và tôi. Tầm vóc cô thì tôi còn lạ gì. Chỉ cần tôi quay nhanh lại là mũi súng sẽ chệch ra ngoài và với một đòn chân, tôi có thể đá gãy cổ cô hay ít ra cũng hạ gục cô trong tích tắc. Trong bóng tối thì bị bịt mắt hay không cũng mù như nhau. Tôi lần tìm cọng thép trong dây đồng hồ và bắt đầu mở khóa còng tay. Được một quãng, khi đoán đã xa tầm nghe ngóng của mấy tên bộ đội, tôi vừa định ra đòn thì cô mở băng bịt mắt tôi.
– Anh cõng mẹ được không? Nhanh lên! Nếu có chuyện gì, anh và mẹ cứ chạy thoát đừng lo cho em. Có thuyền chờ sẵn đằng kia. Cô ôm súng chạy phía trước, tôi cõng bà cụ men theo bờ rừng dương liễu mải miết theo cô. Độ một cây số, chúng tôi đến một thuyền nhỏ có người chờ sẵn. Thuyền được đẩy ra, nổ máy và nửa giờ sau chúng tôi ra thuyền lớn đi thẳng.
Hôm sau chúng tôi được tàu Mỹ vớt về đảo Guam.
Phạm Thành Châu – ĐS14.