Nhóm 1% QGHC - Thông tin nội bộ QGHC Tỵ Nạn Hải Ngoại. Thiết lập từ 2008- Email Liên Lạc: cnguyqghc@gmail.com

Monday, July 15, 2019

Bên lề tù cải tạo
TƯỢNG NÔNG DÂN XÃ NGHĨA
LHXung, Melbourne


Lại một chuyện có thật;


Như trước đây tôi có kể sơ qua về công việc chính của "Trại Trong" với 82 cải tạo viên chúng tôi là chuyên đốn cây tràm làm nhà, đợt đầu tiên là chúng tôi cung cấp để chuẩn bị xây cất  "Trại Ngoài". Trại ngoài được xây cất lớn hơn trại trong nhiều, vì nhu cầu giam giữ trại viên ngày một gia tăng sau  30 tháng tư. Chính cải tạo viên cũ xây trại tù để chứa các cải tạo viên mới, VC luôn chơi đòn " mình xây tù giam ta"; chúng không tốn kém gì cả, kể cả lúa thóc cũng do cải tạo làm ra, nhưng khẩu phần thì chúng ra tay hạn chế!

Câu chuyện xảy ra tại trại ngoài, ngay những ngày rất sớm, khi các cải tạo được từng đợt đem vào từ những nơi tạm giam khác trong tỉnh. Khi cất xong một căn trại nào thì chúng đưa người đến để tiếp tục cất thêm các căn kế tiếp ... cứ thế mà trại ngoài bành trướng dần, người cứ đông thêm.

Chúng cho cất một hội trường thật lớn, dùng để tập họp, chứa đủ chỗ cho tất cả cải tạo khi cần. Trong trại lần hồi xuất hiện các toán chuyên môn, nhằm khai thác khả năng cá biệt của cải tạo; nào là toán văn công, toán trang trí, toán cải hoạt, toán thợ mộc, toán thợ rèn, toán đập sậy đan liếp, toán thuốc dân tộc .v.v...

Ðặc biệt trong nhóm trang trí do anh LKVân làm toán trưởng, anh Vân là nhân viên của Cơ Sở dân vận & Chiêu Hồi Kiên Giang cũ. Trong số toán viên có một anh, hiện tôi cố nhớ tên mà hoàn toàn quên mất, nhưng tôi nhớ rõ vài chi tiết về anh ta, tôi kể ra đây chắc sẽ có người nhớ ra tên tuổi anh ấy. Anh ta là người gốc Sài Gòn/ Gia Ðịnh gì đó?! Anh tốt nghiệp (?) trường cao đẳng mỹ thuật Gia Ðịnh, anh gia nhập cán bộ xây dựng nông thôn, sau khi mãn khóa ở Vũng Tàu anh được thuyên chuyển về tỉnh Kiên Giang. Sau nầy anh cưới con gái một tiệm hàng xén trên đường Phó Ðiều, cách nhà thuốc tây Kiên Giang không xa về phía cầu tàu Mỹ.

Vì tài năng chuyên môn về mỹ thuật nên anh được giữ làm việc tại tỉnh đoàn. Thú thật tôi chưa hề quen biết anh ta trước năm 75, mặc dù tôi vẫn thường xuyên ra vào trung tâm bình định và xây dựng nông thôn của tỉnh qua các công tác liên nhiệm giữa Quận và Tỉnh



Anh cải tạo viên gốc cán bộ XDNT nầy, tính tình rất trầm lặng, không nghe anh nói gì với ai, tối ngày cứ quanh quẩn trong công việc: vẽ bảng, kẻ khẩu hiệu, trang trí hội trường ... không thuộc các toán lao động nặng. Thấy anh ở đâu cũng với cây thước vẽ trong tay và vài cây cọ nhỏ ló ra khỏi cái túi dưới áo bà ba đen, loại áo XDNT. Trong trại không ít người gốc cán bộ XDNT, nhưng hầu như anh không có một bạn nào gần gũi với anh, buổi chiều sau giờ lao động, anh hay lang thang một mình với bộ ba ba đen luôn mới toanh (chắc anh còn nhiều bộ XDNT chưa mặc hết trước 75!)

Nhờ anh ta mà căn Hội Trường từ từ trở thành một nơi tập họp rất " Ðảng và Nhà nước!"; cờ xí, biểu ngữ ... chỗ nầy, góc kia mà theo ý kiến của bộ đội là: "rất có văn hóa xã hội chủ nghĩa."

Nghe đâu anh đã âm thầm trình lên Ban Quản Trại một " Ðồ án"; đề nghị phía trước sân Hội Trường, anh ta sẽ đắp một  "Tượng Nông Dân Xã Nghĩa" , gồm có một ông nông dân vác cuốc và một chị phụ nữ ôm bó lúa, hí hửng , âu yếm đi bên nhau với nét mặt vui tươi biểu lộ giai cấp nông dân ấm no dưới chế độ XHCN.

Vì phương tiện eo hẹp, anh chỉ trình bày bằng lời lẽ và chữ viết, chứ không làm mô hình trước. Cho nên với ý nghĩa hay ho về cùng phe cách mạng ấy, ban quản trại đã chấp thuận đồ án ngay. Có lẽ cộng thêm đề nghị chỉ tốn kém tối thiểu bằng các phương tiện như đất sét, rơm và xi măng chỉ dùng để đắp láng một lớp bên ngoài, chống mưa khỏi mục rã mà thôi; vì thế mà đồ án đã dễ dàng được ban chỉ thị  "hạ quyết tâm thực hiện".

Anh bắt tay vào việc, bằng cách lấy các miếng lõi rắn chắc của các cây tràm to, cắm sâu xuống đất làm sườn chống đỡ tượng. Dùng rơm nhồi với đất sét và chút ít xi măng từ từ đắp các chân tượng lên cao dần. Tượng người nông dân xã nghĩa đã từng bước hình thành, nhưng nó được anh dựng lều bao phủ nên ít ai thấy rõ diễn tiến nó ra làm sao!

Anh cứ lặng lẽ làm việc và chừng 3 tháng sau thì bức tượng đã được hoàn tất. Anh tháo gỡ lều che cho mọi người chiêm ngưỡng. Một chủ nhựt nọ khi trại viên ra vào thăm nuôi mới thấy  tượng đã hiên ngang, sừng sững đứng trước hội trường.

Ban quản trại đã không hề công khai tán tụng kỳ công của người tạc tượng, nhưng chúng tôi đã từng len lén bắt gặp nhiều lần các quản giáo dừng chân, gật gù thưởng lãm!

Tượng "Nông dân xã nghĩa" với những đường nét rất độc đáo, giữa chốn hoang sơ ruộng đồng, rừng tràm âm u, lau sậy mịt mù mà có một bức tượng nghệ thuật cùng mình như thế quả là hết sức tưởng tương! Có thể nói từ thời khẩn hoang lập nghiệp mấy thế kỷ trôi qua ... thì mãi tới 75 khi có cải tạo vào khu U-Minh đắp được bức tượng "đầu tiên". Chính bức tượng đã đem ánh sáng văn minh vào tận vùng muỗi mồng, bùn sình lầy lội ... theo tôi với ý nghĩa tiên phong ấy, công lao của tác giả có thể đem so sánh bằng một ý nghĩa nào đó không thua gì thành tích của Mạc Cữu vào thuần hóa đất Hà Tiên!

Nhìn vào bức tượng, ngoài những nét mặt sống động, mềm mại; rất có thần, rất tự nhiên, thiếu nữ trẻ trung, mặn mà ôm bó lúa, diễn tả được niềm vui của những người nông dân gặt hái được mùa.  Và đặc biệt dù bất cứ ai chưa một lần đốt đèn ngắm của quí, cũng cảm thấy hình dáng tượng người phụ nữ rất hấp dẫn với những đường cong, cầu vòng tuyệt mỹ, khiến cho cải tạo lâu ngày xa cách "hơi quen" không khỏi rùng mình chao đảo !!! Hai ngọn đồi non, không to không nhỏ ... làm vừa ý mọi người, hậu vận thì căng tròn, lêu nghêu hết sẩy !

Còn hình tượng người nông dân thì gương mặt xương xương, râu dài như râu ông cụ thời 9 năm kháng Pháp, nét già thấy rõ nhưng toàn thân quắc thước, nhựa sống hãy còn dư; tay trái khỏe khoắn trong tư thế vịn cán cuốc vác trên vai, tay phải thì cụ lòn qua ôm eo ếch cô thiếu nữ, trông rất hăng hái và tha thiết lửa tình.

Mỗi người một cảm xúc riêng, một nhận xét khen tặng khác biệt ... nhưng hầu như tất cả đều cùng chung một đồng ý là: "Tượng người nông dân có nét mặt y hệt ông cụ" gầy gầy như thời ở hang Pắc Pó.

Rồi không bao lâu sau, từ vài người lan ra tới cả trại ai cũng nói lén, gọi tượng nông dân xã nghĩa thành tượng: " Cụ Hồ ôm gái" !

     Ðến đây quý bạn đọc chắc đã đoán được chuyện gì đã xảy ra cho anh chàng tác giả bức tượng, được bạn đồng cảnh gắn cho cái tên quái ác như trên?! - Anh ta bị đem cùm trên trại 7 Hảo khá lâu, bức tượng bị bộ đội phá hủy trong đêm. Sáng ra có người ở trại 4 gần hội trường, ra đồng tiết lộ cho biết : "tượng đã bị thủ tiêu rồi !" . Từ đó thiên hạ có thêm một câu chuyện vui, với hàng ngàn câu tự hỏi, tự trả lời ... Có người cho rằng anh XDNT chơi xỏ cách mạng, người nói anh ta " Ác ngầm", người thì so sánh "bàn tay anh lúc nầy bằng thành tích 3 sư đoàn dù năm xưa"... Có người thì đoán anh chỉ vô tình, nghĩ rằng nắn cho giống Cụ thì càng hay, có đâu ngờ bức tượng đã đưa tài năng của anh lên ngang hàng một "Ngô Viết Thụ" . 

So sánh với Ngô Viết Thụ là một kiến trúc sư kỳ tài, đoạt giải khôi nguyên La Mã, mà có người còn chưa chịu và cãi rằng: "Nếu Ngô Viết Thụ mà cải tạo ở U - Minh thì chắc khó mà tạo ra dược bức tượng cụ Hồ ôm gái như anh cán bộ XDNT đã gây chấn động ở trại Kinh Làng Thứ 7". 

Nghe đâu từ trại Tù Số (Tù hình sự) của 7 Hảo, anh đã bị đưa chuyển đến một trại tù nào đó, không biết số phận đã ra sao?!. Nhưng anh Cán Bộ XDNT ấy đã để lại trong tôi một nỗi nhớ bi hùng của một thời cải tạo, đôi lúc hay sống lại chập chờn, nặng nề trong tâm trí của tôi. 
Dù nay đã được sống một đoạn đời tự do khác hẳn, cách xa chốn cũ 6, 7 ngàn cây số chim bay mà tôi vẫn không thể nào nhạt nhòa hình ảnh những người bạn tù không may và  dáng dấp người cán bộ XDNT lặng lẽ đó vẫn còn gợi nhớ ngậm ngùi, sống động về những năm tháng gian lao, khắc nghiệt ở Trại Tù Rừng Tràm U-Minh Thượng ./-



     lhxung, Tháng 01/2005

Tuesday, July 9, 2019

NGUYỄN ĐỨC NGHIÊM – PHÓ QUẬN KIÊN LƯƠNG- KIÊN GIANG VỚI 30-4-1975.
Lâm Hữu Xưa

Bây giờ thể theo lời “cầu yêu” của Web Trưởng hồi trong năm, tôi xin kể tiếp một vài chi tiết khác để nhắc nhớ về Nguyễn Đức Nghiêm 14- Phó Quận Kiên Lương:Thật ra, chiều tối 30.4. Nghiêm đã rời Quận Kiên Lương, nơi có nhà máy Xi Măng Hà Tiên, nằm giữa đường Rạch Giá-Hà Tiên. Nghiêm đã ra khơi trên một chiếc PCF (Tàu tuần sông ngòi và cận duyên, chạy rất nhanh do Hoa Kỳ giao lại). Chiếc PCF nầy thuộc một đơn vị Hải Quân yểm trợ an ninh cho nhà máy Xi Măng Hà Tiên, Quận Lỵ Kiên Lương. Nghiêm đã rút theo đơn vị Hải Quân ấy cùng với các Sĩ Quan của Chi Khu Kiên Lương. Ra gần Phú Quốc gặp tàu lớn của Mỹ đang chờ đón thì tất cả những người đi với Nghiêm đều leo lên tàu di tản, chỉ có Nghiêm và một Anh Trung Úy Hải Quân sĩ quan trưởng chiếc PCF đó quay trở vô Rạch Giá.

Chừng 11 giờ sáng ngày 1-5, Nghiêm đột ngột đến nhà tôi, đó là căn cư xá ở số 12 Lý Thường Kiệt, thuộc Khu Mộ Bia, gần Sân Vận Động Rạch Gía. Nghiêm gõ cửa bước vào, tôi nửa mừng vì bất chợt còn có Nghiêm, và nửa kia thì ngập tràn sửng sốt vì tại sao Nghiêm còn ở lại?! Nghiêm hỏi có còn chai nào không? Lục tủ may mắn còn 1 chai duy nhứt ; Bà Xã tôi vộI nhanh tay sửa sọan một món nhậu dã chiến “Xoài tượng bằm, trộn cá mòi hộp với ớt thật cay”. Hai đứa “cưa hai” chai Rémy Martin sau cùng VNCH! Nghiêm từ từ kể chuyện đã ra khơi an tòan rồi mà quay vào bờ là vì: “Nghiêm cảm thấy vô cùng phân vân, vẫn tin là Mẹ còn ở Sài Gòn ... Nghiêm nói ngày mai Nghiêm sẽ đi Cần Thơ để biết tin tức Cô Bồ ra sao, vì chuyện xảy ra quá nhanh chưa dặn dò gì với nhau được cả; rồi sẽ về SG để biết tin gia đình.” Trước đây trong bài nói về Khóa 1/72 Thủ Đức, tôi có kể sơ qua về Cô Bồ của Nghiêm thường hay từ Cần Thơ lên Thủ Đức thăm cuối tuần. Hình như Nghiêm có kể cho tôi nghe nhà của Cô Ấy ở Cái Răng thì phải (?) và Anh của Cô Ấy là một Trung Tá Không Quân. Nghiêm ngồi nhậu với tôi mà rất nôn nóng muốn biết tin tức về gia đình và Cô Bồ bên Cần Thơ đã đi theo người anh cũa Cô ấy hay còn ở lại?!
Tôi đã kể rồi, hai đứa cưa gần xong chai RM thì VC tông cửa vào nhà tôi, quơ súng vào chúng tôi, chúng 2 đứa chạy thẳng từ trước ra sau. Thấy chỉ có vợ tôi và hai đứa nhỏ đang lui cui sửa soạn cơm trưa, một canh giữ cửa sau, một tên trở ra cửa trước hỏi rõ danh tánh tôi để xác nhận có phải tôi là PQT Kiên Thành hay không?! Hắn ta quay sang Nghiêm hỏi anh nầy là ai? - Tôi vội giới thiệu Nghiêm là  hàng xóm, tôi chỉ đại hướng đối diện xéo với nhà tôi.  Sau đó họ mời tôi ra xe chở đi, đi một đoạn họ mới bịt mắt tôi... Qua một đêm lấy khai ráo riết, hôm sau họ thả tôi về và dặn chờ gọi lại để đi học tập vào ngày 4/5. Về nhà vợ tôi cho biết Anh Nghiêm thấy anh bị bắt đi, anh ấy sợ quá vọt nhanh không nhắn gởi gì cả!
À quên nữa, trước khi nhậu, tôi và Nghiêm đã đến Ty Thông Tin trình diện xong, mới có trái xoài tượng và về nhà bớt âu lo vì đã được căn dặn chờ đi học tập chỉ đôi ngày thôi!
Tới sáng ngày 3-5 thì tôi được người quen cho biết, Nghiêm muốn đến gặp tôi tại nhà có được không?! - Tôi vội lấy xe Honda đi chở Nghiêm về nhà, Nghiêm cho biết không dám đi Cần Thơ, đã gặp được người nhà từ Sài Gòn xuống Rạch Giá. Nghiêm đã lo được tàu để cùng đi với Chú Thím (hay Cậu Mợ?).
Chiều ngày 3/5 độ chừng gần 5 giờ, Nghiêm nhờ tôi đến nhà Ông Tư Khâm, mua bán cá biển, nhà ở một Hẻm nhỏ đường Nguyễn Trung Trực, gần Cổng Tam Quan đưa từng người xuống tàu để ra khơi. Xuống tàu ngay bến cá đối diện bên kia sông là Đình Thần Nguyễn Trung Trực, tàu đánh cá đậu chật nít nên Nghiêm và 4 người đồng hành đã xuống tàu không có gì trở ngại cả! Tôi dùng xe Honda chở 2 người 1 lần và chuyến thứ 3 tôi chở một mình Nghiêm sau cùng.
Tàu của Nghiêm ra đi vừa khuất dạng, tôi còn tần ngần đứng dòm ra khơi ... thì thình lình nghe nhiều loạt đạn AK chát chúa thật gần, thiên hạ tán loạn ... Cách chỗ tôi đứng chừng 20 thước trên đường Hoàng Diệu, VC đã bắn hạ một người cỡ tuổi trung niên, tôi vội vã lên xe bỏ chạy, quay nhìn vẫn thấy người bị thương nằm lăn lộn. Chung quanh chẳng có ai dám lại gần chỉ có 2 tên VC đang lăm lăm ghìm súng vào người đang giẫy giụa ấy!
Tối đến tôi mới được nghe kể, người bị bắn đó là một Trung Tá Hải Quân định tìm tàu ra khơi, nhưng bị VC chận xét mà bỏ chạy nên bị bắn. Lúc bị thương chưa chết; nhưng bị một tên hồi chánh tên Y Tá hồi chánh tên Hổ, nhà ở đầu cầu Ong Đình Ký, lập công với VC, rút súng cá nhân bắn vào đầu vị trung tá đó! Ở Rạch Giá nhắc đến Y Tá Hổ hồi chánh thì ai mà không biết. Đêm 30 hắn đi gom súng đem về nhà chất đống để sáng hôm sau giao cho VC để tạo công đầu.
Kể từ giờ phút có vụ VC bắn chết một trung tá tại Bến Cảng thì khu vực đó hoàn toàn bị cấm lui tới. May mà Nghiêm đã vừa thoát được, lúc đó tôi cứ cho rằng Nghiêm đã may mắn trong gang tấc, chứ đâu ngờ ...
Trong lúc sửa soạn đưa Nghiêm xuống tàu, Nghiêm có nói: Mầy ở lại tìm cách đi sau nhé, (Nghiêm biết tôi không đi được vì vợ tôi vừa sanh cháu nhỏ, hãy còn quá yếu.) Nghiêm nói nếu tao thoát được lần nầy, tao sẽ đi tu trở lại, tao sẽ tu Dòng kín.
Đầu năm 79, khi tới Úc là tôi vội gởi thư đăng báo tìm Nghiêm. Mấy tháng sau, gần tới Noel thì tôi nhận được Tấm thiệp Chúc Mừng Noel của Nguyễn Đức Trang, em của Nghiêm mà tôi đã vài lần gặp gỡ khi đi cùng với Nghiêm. Trang là Sĩ Quan có sang Hoa Kỳ du học về Hành Chánh Tài Chánh thì phải? và về nước làm việc tại căn cứ Tân Cảng, New Port. Trong tấm thiệp mừng Noel, Trang có viết vắn tắt thêm vài chữ: Em vừa từ Colorado về, em sẽ viết thư cho anh biết về Anh Nghiêm sau.
Tôi chờ thư của Trang hoài, tới mãi bây giờ ... mấy chục năm trôi qua rồi mà tôi vẫn cứ trông chờ thư của Trang ... để hy vọng Nghiêm vẫn còn sống trong một Nhà Dòng Tu Kín nào đó theo ước nguyện mà Nghiêm đã nói với tôi trước khi bước xuống tàu ... con tàu định mệnh phải không Nghiêm?!!!
Kể chuyện Mầy, nước mắt tao lại nhạt nhòa thương nhớ xa xăm !!! Chúng mình rồi sẽ gặp lại nhau nhá...!
Mới đây , Tháng 5/ 2019, tình cờ tôi có được chút tin về công việc thực hiện BIA ĐÁ THUYỀN NHÂN TỬ NẠN TRÊN ĐƯỜNG VƯỢT BIÊN TÌM TỰ DO đặt tại khu vực gần Little Saigon, Cali. Nghe nói Ban Tổ Chức đang thu nhận thêm danh sách vượt biên tử nạn để sẽ thực hiện khắc tên bổ túc trước Ngày 30 Tháng 4 Năm 2020. Tôi vộI thong báo tin nầy đến các Bạn đồng khóa ĐS14 ngụ tại Cali để sớm liên lạc vớI BTC để đề nghị khắc tên Nguyễn Đức Nghiêm vào bia đá Thuyền Nhân đợt bổ túc nầy. Rất may anh em 14 chúng tôi vừa được tin Anh Đại Diện khóa 14 hiện thời là Anh Nguyễn Đức Tín đã báo tin cho hay là BTC đã nhận được đề nghị và chấp thuận sẽ khắc tên Anh Nguyễn Đức Nghiêm vào bia đá. Nếu không còn gì trở ngại thì bia đá bổ túc sẽ được khánh thành vào dịp tưởng niệm 30-4-2020.
Cũng xin nói thêm là việc đề nghị khắc tên Anh Nghiêm đã được Anh Tín liên lạc với Anh ruột của Anh Nghiêm là cựu Thiếu Tá Nguyễn Đức Văn và người em của Nghiêm là cựu Trung Úy HCTC Nguyễn Đức Trang hiện sống ở khu Bắc Cali, gần Pittburg thì phải. Chính Anh Văn đã viết thư đề nghị nên BTC bia Thuyền Nhân mới chánh thức chấp nhận.
Lâm Hữu Xưa, Úc Châu



(Những chi tiết nầy đã được ghi lại từ năm 2006. Nay nhân cơ hội muốn đóng góp chút tin tức nội bộ cho Đặc San Hội Ngộ QGCH Kỳ 5 tại Washington D.C. Nên tôi mạo muội bổ túc thêm vài chi tiết và xin Qúy Anh trong Ban Biên Sọan Đặc San, tòan quyền chỉnh sửa cần thiết- Thân kính-lhxưa-14- Úc Châu. Tháng 7/ 2019)

Wednesday, July 3, 2019

PHÂN ƯU 
***
Image result for lotus flower
Chúng tôi vô cùng thương tiếc 
Đồng môn


                         Anh Nguyễn Đức Du

                      Pháp danh Minh Thành


Cựu Sinh Viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Đốc Sự Khóa 15



           Từ trần ngày 03/07/2019 tại Sydney Úc châu.



                           Hưởng thọ 77 tuổi



Nhóm QGHC/ WebBlog Bình Yên QGHC Hải Ngọai. Thành kính chia buồn 
         cùng Chị Nguyễn Đức Du cùng tang quyến.

Nguyện cầu hương hồn anh Nguyễn Đức Du được sớm tiêu diêu nơi cõi Niết Bàn.



WebBlog Bình Yên QGHC Hải Ngọai

Mountain View- Cali-USA


Monday, May 20, 2019

PHÂN  ƯU 
Image result for hoa sen trắng
Nhận được tin buồn
Hiền thê đồng môn Phan Bái (CH3)
Bà TRƯƠNG THỊ PHI ÁNH
Pháp Danh Ngộ Liễu Quang
Đã từ trần ngày 15 tháng 5 năm 2019 
tại San Diego - California Hoa Kỳ
Hưởng Thọ 78 tuổi

Toàn thể Đồng Môn QGHC Úc Châu, thành kính chia buồn cùng Anh Phan Bái và Các Cháu Anne-Trường, Quang-Du, Tin, Mi-(Phu Quân). 
Kính nguyện cầu cho Hương Hồn 
TRƯƠNG THỊ PHI ÁNH, 
Pháp Danh Ngộ Liễu Quang 
sớm siêu thoát về Cõi Niết Bàn.

HỘI CỰU SINH VIÊN QGHC-Australia 
&Nhóm Biên Tập Blog Site Mậu Thân 68-
Mountain View, Ca.

Wednesday, May 8, 2019

XIN BẤM VÀO LINK SAU ĐỂ NGHE BẢN NHẠC TỰ HÁT CỦA NGUYỄN VĂN SANH -ĐS17:

Click đường link bên dưới để thưởng thức bài nhạc:
https://soundcloud.com/nguyendongdanh/hoingothamsu-4mp3


Advertisements

Sunday, April 28, 2019

SINH HỌAT ĐỐC SỰ 14



TƯ GIA CỦA ANH CHỊ NGUYỄN ĐĂNG ĐỘ- SANJOSE -2016

Monday, April 22, 2019

Nỗi Buồn Tháng Tư


Đối với người Việt ở hải ngoại, hay cả người Việt yêu chuộng Tự do trong nước, 30 tháng Tư là ngày đau buồn nhất, kể từ năm 1975 và mãi mãi về sau. Riêng với tôi, một cựu công chức tốt nghiệp trường QGHC Sàigòn, đã từng phục vụ tại một quận nhỏ bé nhưng là một chiến trường thật sôi động, thì ngày tháng đau buồn đáng ghi nhớ bắt đầu từ 20 tháng 4, 1975. Nơi đó quân ta đã anh dũng chống trả với ba sư đoàn Việt Cộng trong gần nửa tháng. Sau đó, chúng tôi cùng với Sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo và các quân cán chính tại địa phương đã triệt thoái khỏi quận Xuân Lộc tỉnh Long Khánh, qua mật khu Bình Giã, về Bà Rịa, tỉnh Phước Tuy.
Sau gần sáu giờ hãi hùng di chuyển dưới đạn pháo của địch bằng xe jeep dân sự của quận, chúng tôi đã về đến Phước Tuy an toàn. Sau này chúng tôi mới biết rằng số quân nhân, sĩ quan đã hy sinh trong trận di tản này khá nhiều, trong đó có Trung tá Tiểu khu phó bị tử trận, Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng bị thương và bị địch bắt … Đoàn người di tản phải dừng lại ở Bà Rịa để kiểm tra. Quân nhân được tái phối trí để lập tuyến phòng thủ thủ đô Sài gòn. Cán bộ, công chức được phép về Sài gòn hay các tỉnh phụ cận.... Khi xe chúng tôi dừng lại ở Thủ Đức để ăn sáng đã nghe tin đồn có một số du kích đêm trước lẻn về tuyên truyền, kêu gọi dân chúng chuẩn bị “đón tiếp quân giải phóng”! Chúng tôi về đến Sài gòn vào buổi trưa. Sau đó tôi lái xe đưa các các nhân viên trong đoàn di tản ra bến ôtô bus để họ đón xe về nhà… Mọi người lưu luyến chia tay để rồi từ đó, bốn mươi năm qua, tôi chưa bao giờ gặp lại họ, những nhân viên đã đồng cam cộng khổ với tôi trong suốt thời gian ở Xuân Lộc, cũng như trên đường di tản đầy hiểm nguy đêm ấy …


* * *

Không khí tại Sài Gòn những ngày hạ tuần tháng Tư thật căng thẳng. Chúng tôi cho đục nền nhà, làm thang gác xuống nhà bố mẹ vợ tầng dưới để tránh pháo kích. Ngoài phố, người dân hối hả tìm đường di tản ra nước ngoài… Một buổi tối, bố mẹ vợ tôi đến thăm, ôm hôn giã từ các cháu nhỏ. Một ông chủ đóng tàu thân thiết với ông nhạc tôi đã hứa cho gia đình bố mẹ vợ tôi cùng đi ! Nhưng hai hôm sau, ông chủ tàu đã thất hứa, lo bôn tẩu trước!

Những ngày sau đó, tôi đi lang thang đến nhà bạn bè, hy vọng gặp vận may để tìm đường di tản. Vô vọng, tôi bước vào rạp Cinê Nguyễn Văn Hảo trên đường Trần Hưng Đạo, xem một phim Pháp. Như thường lệ, trước khi xem phim, khán giả đứng lên nghiêm chỉnh chào quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà. Nhìn lá cờ thân yêu đang phất phới trên màn ảnh lớn trước mắt, bỗng nhiên tôi nhớ đến lá cờ vàng ba sọc đỏ phất phới trong ánh lửa pháo kích của địch sau lưng chúng tôi như vẫy tay giã biệt, khi chúng tôi rút khỏi chiến trường Xuân Lộc mấy ngày trước đó …Hôm nay, chào lá quốc kỳ thân yêu trong một rạp hát ở Sài gòn, tôi có cảm giác mình lại phải di tản một lần nữa, trước khi Cộng Sản vào đây. Nhưng đi đâu, bằng cách nào ? Hai giòng lệ ứa ra, lăn dài xuống đôi má hóp, nhạt nhoà đôi mắt mang kính cận của tôi lúc ấy! Tôi không còn lòng dạ nào xem hết cuốn phim, bèn bước ra khỏi rạp với tâm trạng lo lắng bồn chồn!

Chiều ngày 26-4, tôi đứng trước nhà nghe tin tức, bên cạnh vợ đang bế con gái út mới hai tháng tuổi. Các con khác đã đi học về, đang quây quần chơi với mẹ. Ông Đại úy Hải quân ở cạnh nhà tôi, đậu xe đậu lại nói nhỏ với tôi:

-Tàu chúng tôi rời bến đêm nay. Ông và gia đình có muốn đi với chúng tôi, hãy chuẩn bị sẵn sàng. Khoảng mươi lăm phút nữa, tôi sẽ xuống đây chở ông bà đi ngay…

Thấy tôi do dự, ông ta nói tiếp:

-Bằng mọi cách, mình phải đi thôi! Sĩ quan như tôi, công chức như ông, chúng nó vào đây sẽ giết hết! Tôi di cư từ Bắc vào Nam năm 54, đã từng nếm mùi Cộng Sản rồi ông ạ. Đi thôi, đừng do dự gì cả!

Tôi quay sang vợ đang lo lắng nhìn tôi. Tôi nhìn ba đứa con tuổi từ ba đến năm tuổi đang đứng quanh mẹ chúng, cười nói vô tư. Đứa con gái út mới hai tháng, còn lim dim ngủ trong vòng tay mẹ. Tôi bỗng do dự: đi hay ở?

Tôi quay sang nói với vợ:

-Các con còn bé quá, làm sao chịu nổi sóng gió mà đi. Hơn nữa em mới sinh xong, còn yếu lắm…!

Vợ tôi im lặng trao cô bé út cho bà ngoại, bước lên lầu bỏ quần áo tôi vào chiếc túi xách du lịch. Đoạn đến bên tôi, tháo chiếc nhẫn vàng đeo vào tay tôi, nói nhỏ:

-Anh cứ để mẹ con em ở nhà với bố mẹ. Đừng lo chi cả! Anh cứ đi một mình. Việt Cộng vào đây, anh sẽ bị hiểm nguy như ông Đại úy nói đó!

Tôi nhìn nàng, người vợ đã từng lo lắng chờ đợi tôi gần nửa tháng khi địch quân bao vây quận Xuân Lộc. Người vợ đã có ý tưởng hy sinh cuộc sống chính mình và bốn con thơ để tôi ra đi một mình. Tôi bỗng liên tưởng đến truyện Anh Phải Sống của Khái Hưng, trong đó người vợ buông mình theo giòng nước lũ sông Hồng, để chồng sống sót, nuôi ba con thơ dại… Giờ đây nỡ nào tôi ra đi một mình, để nàng với bốn đứa con nhỏ ở lại hay sao? Đã ra đi, làm sao có thể trở lại, khi quê hương đất nước bị Cộng sản thống trị. Và rồi vợ chồng sẽ mãi mãi chia lìa; các con sẽ mãi mãi không gặp lại bố…Thế thì tôi ra đi làm gì? Khi ông Đại úy trở lại, hỏi tôi đã chuẩn bị xong chưa để ra đi, tôi im lặng lắc đầu … Ông nhìn tôi, ánh mắt ngạc nhiên lẫn buồn rầu. Đó là lần cuối cùng chúng tôi nhìn nhau, thông cảm hoàn cảnh của nhau…

Sài gòn vào những ngày gần cuối tháng Tư năm ấy, trở nên hoảng loạn. Tin tức chiến sự bi quan từng ngày. Đêm 25 tháng 4, Tổng thống Thiệu lên TV trần tình về tình hình đất nước, đổ lỗi cho người Mỹ không viện trợ đầy đủ cho Việt Nam Cộng Hoà để ngăn chặn làn sóng CS xâm lăng...Sau đó dùng xe hơi riêng, cùng đoàn tùy tùng lên máy bay của Đại sứ Mỹ ra đi… Những đêm kế tiếp, VC từ bên kia sông Sàìgòn pháo kích vào thành phố. Ban ngày người ta đi hôi của tại các nhà giàu đã di tản…

Đến sáng ngày 30 tháng Tư, một người chú của tôi đã chạy trốn Việt Cộng từ Miền Trung, vội chạy đến đến hốt hoảng nói với tôi:

-Cháu ơi! Việt Cọng đã vào đến Hoà Hưng rồi ... Liệu tìm đường mà chạy đi thôi!

-Nhưng thưa chú, chạy đi đâu bâu giờ?

Chú cháu nhìn nhau, đau buồn và tuyệt vọng…

Đến 10 giờ rưỡi trưa, nhạc trên đài phát thanh Sài gòn vụt tắt.… Có tiếng của tướng Dương Văn Minh, nhân danh Tổng thống và Tổng tư lệnh quân lực Việt Nam Cộng Hòa ra lệnh cho các đơn vị quân đội đầu hàng…Sau đó là tiếng hát, tiếng đàn ghi ta của Trịnh Công Sơn, vang lên ca khúc phản chiến “Nối Vòng Tay Lớn”…Tôi ngồi phịch xuống giường, nhìn trừng trừng vào chiếc Radio vừa phát ra những lời kêu gọi đầu hàng, buồn rầu vô hạn. Hai dòng nước mắt thất vọng và căm tức chảy dài xuống má! Hỡi ôi! Cuộc chiến đấu bảo vệ Tự do của quân dân cán chính Miền Nam đã kết thúc nhanh chóng và tủi nhục như thế này sao?

Trưa hôm ấy, tôi bước ra ngoài để xem quang cảnh náo động ngoài đường. Người ta đổ xô đi làm quen với những “chú bộ đội”, với dép râu nón cối, súng AK kè kè bên hông…Người ta ngắm nhìn họ như những “sinh vật lạ” mà lâu nay chỉ nghe, chứ chưa thấy tận mắt. Người ta hỏi những câu ngô nghê chỉ cốt làm quen với đám “chủ mới”, đầy quyền uy với súng đạn và bạo tàn! Trên đường phố, xe hơi quân sự chạy qua chạy lại, với những “tên cách mạng giờ thứ 25” , với băng đỏ quấn cánh tay, mồm la hét trong những chiếc loa cầm tay, náo động cả khu phố! Có tin đồn về một cảnh sát viên của “chế độ cũ” vừa tự tử ở “ngã tư quốc tế”, không xa nhà chúng tôi…Rồi một sĩ quan tự kết liễi đời mình cạnh bức tượng Thủy Quân Lục Chìến ở cuối đường Lê Lợi, Sài Gòn…

Khi trở về nhà, tôi gặp một người láng giềng trong cư xá công chức gia đình tôi ở từ lâu. Anh này trước đây thỉnh thoảng hỏi thăm tôi mỗi khi tôi từ Quận về phép. Anh chỉ chiếc xe Jeep dân sự của quận Xuân Lộc đậu trước nhà - chiếc xe tôi đậu nơi đó từ ngày di tản từ Xuân Lộc về đây:

-Xe riêng của anh, hay xe của Quận anh làm việc đó?

Tôi trả lời “người bạn tốt” mà tôi quen từ khi anh ta vào ở cư xá này:

-Tôi làm gì có tiền mua xe?…Đó là công xa của quận, mang số ẩn tế, anh thấy đó !

Anh ta “cảnh báo” tôi:

-Anh liệu mà giao nộp sớm cho “mấy ông cách mạng”, kẻo sau này rắc rối lắm đó!

Sau này tôi mới biết “người bạn tốt” mà tôi tưởng lầm bấy lâu nay, lại là tay VC nằm vùng, nhận nhiệm vụ, theo dõi tôi - cũng như những “đối tượng” khác từ lâu! Chẳng bao lâu sau, anh ta lên làm “tổ trưởng dân phố” trong cư xá.

Nghe người bạn lên tiếng “cảnh báo”, tôi sực nhớ những đến giấy tờ, khuôn dấu mang theo từ quận Xuân Lộc. Tôi gói ghém những khuôn dấu của cơ quan hành chánh quận Xuân Lộc,

bỏ vào túi, đem đi ném xuống sông Sài gòn …Theo sử sách, trong trận vua Quang Trung đại phá quân Thanh năm 1789, tướng Tàu Tôn Sĩ Nghị đã vội vã một mình một ngựa, không kịp mang giáp trụ, trốn chạy với đám loạn quân, bỏ lại cả ấn tín…Còn chúng tôi, mặc dù phải rút lui khỏi trận địa Xuân Lộc, chúng tôi vẫn trật tự nghiêm chỉnh, vẫn không để những khuôn dấu quận Xuân Lộc - biểu tượng của nền hành chánh Việt Nam Cộng Hòa - rơi vào tay kẻ địch! Nhìn giòng nước cuồn cuộn chảy, nhận chìm những khuôn dấu đã từng quen thuộc với chúng tôi trong hơn hai năm làm việc tại quận Xuân Lộc, mà lòng buồn vô hạn!

Bỗng nhiên tôi nhớ đến một buổi chiều mùa đông âm u bên bờ sông Vệ cuối năm 1954. Hôm ấy gia đình chúng tôi đang chờ chiếc đò bên kia sông sang chở khách. Bên kia sông, lá cờ vàng đang phất phới tung bay trong gió đông, gợi trí tò mò lẫn ước mơ của cậu thiếu niên đã sống chín năm trong tăm tối của Việt Minh! Bên kia sông là cuộc sống huy hoàng, là tương lai tươi sáng mà cậu thiếu niên và gia đình đang mong ước, chờ đợi. Hai mươi mốt năm sau, vào buổi chiều cuối tháng 4 năm 1975, tôi ngồi bên bờ sông Sài Gòn, nhìn làn nước đục trôi đi mà nghĩ đến thân phận mình, tương lai và gia đình mình, đến những người bạn “đồng cảnh ngã ngựa” không biết ngày mai những “kẻ thắng cuộc” sẽ ra “đòn thù” thế nào đây?


* * *

Sáng hôm nay, một buổi sáng đầu tháng Tư của Mùa Quốc Nạn, nắng ấm rực rỡ chan hoà vùng đất tỵ nạn miền Nam California. Tôi đi giữa đại lộ Bolsa thênh thang mà nhớ đến những ngày tháng cũ khi chiến trường Việt Nam sôi sục vào thời điểm bốn mươi năm trước. Chiến tranh đã tàn từ lâu, nhưng những ám ảnh về ngày tháng u buồn năm xưa vẫn theo đuổi tôi suốt một quãng thời gian dài gần nửa thế kỷ; suốt một quãng đường dài gần nửa vòng trái đất. Từ trại tập trung Cộng sản ở miền Nam ra miền Bắc Việt Nam.; và rồi mười năm sau, từ một đất nước mất cả độc lập, dân chủ lẫn tự do... tôi đã đến một xứ sở ấm no hạnh phúc, đầy đủ tự do, nhân quyền này... Xứ sở ấy cách xa cách quê hương cũ của tôi đến nửa vòng trái đất, đến một Thái Bình Dương bao la bát ngát . Tôi đã nhận nơi này làm quê hương thứ hai, với tất cả sự cảm mến chân thành…

Khi tôi đậu xe trước một khu chợ đông đảo khách hàng người Việt, bỗng thấy một người hát rong đang ôm đàn, hát một ca khúc mà đã lâu lắm tôi chưa được nghe. Đó là một thanh niên gốc Việt trẻ tuổi, đứng bên chiếc xe hơi cũ, trên mui có đặt chiếc loa thùng, tay cầm chiếc micro… đang say sưa hát bài Một Mai Giã Từ Vũ Khí của cố nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân. Tiếng người ca sĩ trẻ đầy xúc cảm, vang vang trong khu đậu xe trống vắng vào buổi sáng tinh sương, giữa lòng phố chính khu Little Sài Gòn. Tôi im lặng đứng nghe, lòng rưng rưng theo tiếng ca trầm bổng nức nở , sâu lắng của anh:

Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn Anh chẳng còn chi, chẳng còn chi Ngoài con tim héo em ơi. Xin trả lại đây, bỏ lại đây Thép gai giăng với lũy hào sâu

Lỗ châu mai với những địa lôi. Ðã bao phen máu anh tuôn, cho còn lại đến mãi bây giờ…

Chàng trai trẻ kia, khi “chinh chiến tàn”, có lẽ hãy còn bé lắm. Nhưng bố anh, người chiến sĩ can trường của những ngày cuộc chiến sôi sục trước năm 1975, có lẽ đã nằm xuống khi chiến cuộc chưa tàn! Máu ông đã tuôn ra, với ước mơ về “một ngày chinh chiến tàn”. Để rồi khi ngưng tiếng súng ngoài chiến trận, “đất nước thống nhất”, máu người dân tiếp tục tuôn rơi trước mũi súng đàn áp tàn bạo của “chính quyền cách mạng”! Và hàng triệu người đã tìm mọi cách bỏ nước ra đi, hàng nghìn người đã bỏ xác ngoài biển cả, trong các trại cải tạo của CS…!

Hôm nay, những ngày gần đến tháng Tư đau buồn, tiếng hát của anh gợi đã gợi lại trong tôi tôi vết thương lòng bốn mươi năm về trước… Hãy hát lên đi, hát nữa lên đi hỡi những người trẻ tuổi Việt Nam của thế hệ hôm nay. Để tiếng hát xoá đi nỗi u buồn, đớn đau của những ngày Sài gòn sụp đổ. Để tiếng hát xua đi những tăm tối hiện tại, làm bừng lên chút ánh sáng tươi đẹp cho một thế giới huy hoàng trong tương lai. Nơi đó sẽ không còn độc tài tham lam, không còn gông cùm đấu tố, không còn áp bức bạo tàn…

Tam Bách Đinh Bá Tâm
ĐS12

Friday, April 5, 2019

CHƯA CHI HỘI NGỘ QGHC KỲ 5 ĐANG GẶP SÓNG GIÓ CHĂNG - MONG RẰNG KHÔNG PHẢI VẬY ?!./-BB

Thư cảm tạ của Chủ Bút Tập san “Hành Chánh Miền Đông”



Thưa Quý Anh Chị,

Vì lý do sức khỏe và công việc gia đình, kể từ ngày 31/3/ 2019,  tôi đã rút tên ra khỏi Ban Chủ Biên “Đặc San Hội Ngộ Liên Khóa 5”, và không còn là “Chủ Bút” của Đặc San này nữa.  Tôi đã chuyển các bài vở mà quý Anh Chị gửi về đóng góp cho Đặc San – xin cám ơn – đến người đứng đầu Ban Chủ Biên. Tôi cũng đã đề nghị Ban Tổ Chức HNLK5  thông báo SỚM  địa chỉ email mới để nhận bài vở mới cho Đăc San.

Nhân dịp này, tôi cũng xin bày tỏ lòng hối tiếc sâu xa của cá nhân mình là tập san “Hành Chánh Miền Đông” năm 2019 đã không được ấn hành -- như đã từng làm trong gần 25 năm qua -- để gửi đến quý Anh Chị như một món quà nhỏ Tết Dương Lịch hằng năm của Hội CSV/QGHC Miền Đông Hoa Kỳ.  Tôi chân thành biết ân sự ủng hộ nhiệt tình về bài vở, tài  chánh và sự khích lệ, mà quý tác giả, độc giả và mạnh thường quân đã ưu ái dành cho tờ báo mỗi khi được cầu cứu.

Một lần nữa tôi xin tri ân tất cả quý Anh Chị. Kính gửi lời chào từ biệt và cầu chúc an lành đến quý Anh Chị và gia đình.

Lê Văn Bỉnh
Cựu Chủ Bút “Hành Chánh Miền Đông” (số 1 – 23)