Nhân Sinh Nhật Đại thượng thọ 96 tuổi, xin hân hạnh giới thiệu
Nữ Sĩ Lão Thành Cụ Bà Đan Phụng

Trước hết, xin mời quý vị đọc một bài thơ viết về Xuân của Bác:
XUÂN THƯỞNG HOA
Xuân đến muôn hương trải khắp trời
Cỏ cây bừng sắc mượt mà tươi
Mẫu đơn cao quý mầu thanh lịch
Hồng quế đoan trang nụ hé cười
Thèn thẹn mai vàng e bướm ghẹo
Nõn nà lan trắng ngại ong soi
Nâng niu tay khách mơn từng đóa
Chỉ sợ hoa hờn cánh rụng rơi.
Cỏ cây bừng sắc mượt mà tươi
Mẫu đơn cao quý mầu thanh lịch
Hồng quế đoan trang nụ hé cười
Thèn thẹn mai vàng e bướm ghẹo
Nõn nà lan trắng ngại ong soi
Nâng niu tay khách mơn từng đóa
Chỉ sợ hoa hờn cánh rụng rơi.
. ĐAN PHỤNG
Cách đây 15 năm, chúng
tôi có dịp gặp Bác Đan Phụng tại Brisbane nhân Lễ mừng Khánh Thọ thứ 81
của Bác trong bầu không khí tươi vui đầy thơ văn và cảm động. Lễ mừng
này do trưởng nam là Ca nhạc sĩ Phạm Cao Tùng tổ chức đã ghi một kỷ niệm
hết sức tốt đẹp, sâu đậm trong lòng Bà ở tuổi xế chiều.
Nhớ ngày xưa khi chúng ta cắp sách đến trường ê a những vần thơ thương nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quang như “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà, Cỏ cây chen lá đá chen hoa“ hay “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
thì nay ta tìm thấy những vần thơ trác tuyệt ấy trong hầu hết các thi
phẩm của nữ thi sĩ Đan Phụng – một Bà Huyện Thanh Quan tân thời. Như bài
Chiều Xuân trên Đèo Ngang chẳng hạn với các vần thơ:
“Cảm mái tranh nghèo trong tĩnh mịch
Chạnh đàn chim muộn giữa bao la
Tang thương khiến mủi lòng du khách
Làm cánh mai gầy cũng rủ hoa”
Chạnh đàn chim muộn giữa bao la
Tang thương khiến mủi lòng du khách
Làm cánh mai gầy cũng rủ hoa”
hay bài Nỗi niềm xa xứ:
“Muốn gửi lời thơ lên cánh gió
Để thơ theo gió đến muôn phương
Quê xưa cách trở ngàn mây nước
Mộng cũ chưa tròn một sắc hương”.
Để thơ theo gió đến muôn phương
Quê xưa cách trở ngàn mây nước
Mộng cũ chưa tròn một sắc hương”.
Thật là tuyệt diệu!
Bác Đan Phụng tên thật
của bà là Cao Thị Phúc, quy y tam bảo với pháp danh Nguyên Đức, sinh
ngày 16-02-1923 tại Hải Ninh (Bắc Việt). Thân phụ là cụ Tuần phủ Cao
Văn, là người theo Tây học, là nhà khoa bảng nhưng rất thích Nho học và
rất am tường chữ Nho. Với chức vụ Tuần phủ trước năm 1954, cụ Cao Văn
thường đi làm việc ở nhiều nơi trên quê hương miền Bắc.
Thuở thiếu thời chị em
Bác Đan Phụng theo song thân đặt chân đến nhiều nơi trên đất nước. Từ
những tỉnh ở đồng bằng Bắc Ninh, Bắc Giang, Phủ Lạng Thương, với giòng
sông Thương hiền hòa chảy qua những đồng ruộng xanh bát ngát, với những
làn điệu quan họ trữ tình đến những núi rừng cao nguyên trùng điệp Tuyên
Quang, Yên Bái, Lạng Sơn với rừng núi bao la xanh tốt, với tiếng chim
kêu vượn hót véo von và tiếng suối reo róc rách, với làn thác bạc từ
trên núi cao đổ xuống như một khúc nhạc tình muôn thuở. Trước cảnh thiên
nhiên không nhuốm bụi phồn hoa ấy, không hiểu sao tâm hồn non dại của
Bác yêu thích thiên nhiên quá, phải chăng tâm hồn yêu thơ và yêu những
cái đẹp của cuộc đời đã trỗi dậy trong tâm hồn Bác từ thuở đó.
Đến lúc trưởng thành,
Bác may mắn đã gặp người bạn đời cùng chung lý tưởng và hai tâm hồn cùng
hòa chung một điệu, cùng yêu thơ và tha thiết với văn chương, phu quân
của Bác – cố thi sĩ Tú Phan. Trong cuộc sống hạnh phúc của gia đình, cả
hai càng thấy cảm hứng làm thơ bay bổng là tuyệt vời, cả hai cùng khắn
khít bên nhau, phu xướng phụ tùy, cả hai làm thơ trên từng bước đường
đời bất chấp thăng trầm của thế sự. Cả hai tìm thấy thơ là nguồn vui
sống vì thơ đã tô điểm cho cuộc đời cả hai thêm hương sắc.
Trước năm 1975, Bác sáng tác rất nhiều thơ và tập thơ “Sông Thương Một Bến” (STMB)
chỉ là một phần trong tài sản tinh thần của Bác. Bác là cựu nữ sinh
trường nữ Cao Đẳng Tiểu học Đồng Khánh, Hà Nội. Đậu bằng Thành Chung
(DEPCI) rồi thi vào ngạch Hành chánh ra làm công chức cho đến khi di cư
vào Nam năm 1954. Tuy làm công chức nhưng tâm hồn lại chỉ say mê văn
chương thi phú.
Những năm tháng còn ở
quê nhà, trong cuộc sống thanh nhàn vẫn viết lách làm thơ, coi đó là một
thú vui cho cuộc đời. Đến khi di cư vào Nam và sau đó lại dấn bước tha
hương đến Úc, nỗi buồn thân thế càng làm cho Bác tìm đến thơ nhiều hơn
nữa. Bác Đan Phụng đến Úc vào đầu năm 1994 do các con bảo lãnh. Tập thơ
STMB đã phản ánh rõ nét về cuộc đời của hai nhà thơ Tú Phan & Đan
Phụng, đã gói ghém tâm tư tình cảm của một đời người từ tình yêu quê
hương đất nước, tình yêu thương thiêng liêng gia đình cha mẹ, con cái,
tình nghĩa son sắt vợ chồng đến tình bạn bè. Bác đã có nhiều bài thơ
đăng trên các báo Việt ngữ tại Úc châu, báo của các Hội cao niên ở
Canberra, NSW và thỉnh thoảng trên các báo khác như báo Hoằng Pháp của
chùa Linh sơn ở Pháp, tờ Chánh Đạo tại Brisbane hay đặc san của cựu nữ
sinh Gia Long chẳng hạn. Riêng năm qua, chúng ta thấy các bài thơ của
Bác Đan Phụng hầu như có mặt đều đặn hàng tuần trên báo Việt ngữ đã làm
thi hứng cho bao tao nhân mặc khách.
Tập thơ STMB đã ra mắt
thật thành công cách đây…… trong một buổi chiều thật đẹp tại Bankstown.
Đây là một tác phẩm văn hóa đầy giá trị tại hải ngoại, là sự hài hòa
giữa hai tâm hồn đồng điệu thi ca và cũng là cặp vợ chồng đầm ấm TP
& Đan Phụng cho đến ngày ông bất chợt vĩnh viễn ra đi để lại nỗi sầu
muộn nhớ thương cho người ở lại. Tập thơ gồm 134 bài thơ trong đó có
phần thơ chữ Việt (chiếm đa số), phần Mượn Vần Thơ Bạn, phần thơ chữ
Hán, phần dịch Cổ Thi và phần Thương Tiếc (Khóc cố nhân, Khóc chồng).
Thi phẩm dày 160 trang với tấm hình bìa vẽ lên một khung cảnh hết sức
gợi cảm man mác sầu vương, với giòng sông Thương và con thuyền neo bến
đỗ, trên không hai cánh chim bay đi về phương trời vô định như định mệnh
của đôi thi sĩ khi xuôi Nam.
Nhà thơ Liễu Thuận Khanh trong bài đề tựa cho thi phẩm STMB đã viết “ “
Năm ấy. mùa binh biến phút chốc rộ lên. Gió ly hương từ ngàn xa thốt
nhiên thổi tràn qua khắp nẻo không sót chốn nào. Qua luồng gió ấy, với
sức bé bỏng của mình, tôi không tài nào bám lại được quê hương, đành
phải bỏ đất, bỏ cánh rừng tràm u minh bồng bềnh trôi dạt, cho đến một
lúc không còn nơi nào trôi đi được nữa nhìn lại mới biết đây là đất
Sàigòn“.
Bác Đan Phụng cho biết,
trong các loại thơ, Bác thích nhất là thơ Đường luật bởi nó không dài
giòng. Chỉ có 8 câu thất ngôn bát cú (gồm cả 4 câu tứ tuyệt) nhưng nó
nói lên trọn vẹn cả một đề tài. Về niêm luật chặt chẽ phải tuân theo,
người sáng tác cũng cần phải có vốn liếng khá về chữ nghĩa – càng biết
chữ Nho càng hay vì chữ Nho sâu sắc lắm. Nhưng khi người thưởng lãm hiểu
được tính sâu sắc của những từ ngữ trong bài thơ thì đó quả là một điều
thích thú! Còn người sáng tác có lẽ còn thích thú hơn nhiều khi nặn óc
ra được một từ vừa ý. Những khi tìm tứ tìm từ như vậy, người thơ đã phải
thao thức suốt canh thâu, có khi cả nhiều đêm suy nghĩ chỉ một bài thơ,
nếu không chỉnh cả ý và lời thì tự nó đã không hay rồi thì làm sao cảm
xúc được lòng người đọc. Bác công nhận thơ Đường khó làm, bởi thế người
sáng tác thơ Đường luật phải tự nghiêm khắc với chính mình mới mong có
được bài thơ hay. Ở Việt Nam, Bác Đan Phụng có rất nhiều bạn thơ ở cả
hai miền Nam Bắc, cùng thời và cùng yêu thích thơ Đường. Còn tại Úc chỉ
có hai ba vị, song tất cả các bạn thơ dù đã thâm giao hay mới quen biết
vài năm nay cũng đều tha thiết gắn bó với Bác và dành cho Bác tình yêu
mến, tình thơ đúng nghĩa của những người thơ đối với nhau.
Đêm ấy, người nữ thi sĩ
khả kính Đan Phụng đã hiện diện nơi đây trong khung cảnh xa quê nhưng
ấm cúng vui vẻ tình cháu con, bằng hữu. Bác Đan Phụng như một hiền mẫu
làm dâng lên trong lòng khách tha hương những rung động ngọt ngào. Trên
đời này, nếu có một tình cảm nào sâu thẳm nhất, rộng lớn nhất, cao vời
nhất, vô hạn nhất; tình cảm hy hữu đó chính là tình yêu của người Mẹ đối
với con mình. Hầu hết những tác phẩm điêu khắc, hội họa, những bài thơ
bài hát, những bản nhạc nói về Mẹ đều là những tác phẩm hay, những tuyệt
tác dễ đi sâu vào lòng người, lắm lúc làm chúng ta rơi lệ. Ta chắc hẳn
không quên những câu ca dao mộc mạc để đời “Công cha như núi Thái sơn, Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra” hay “Mẹ là cả một đại dương, Mẹ là cả một thiên đường trần gian” hay “Lòng Mẹ bao la như biển Thái bình dạt dào“.
Tình Mẹ bao la như thế nên chúng ta đã thấy một Y Vân với bài Lòng Mẹ; bài thơ “Bông hồng cài áo”
được Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ phổ nhạc và còn biết bao nhiêu tác phẩm khác
nữa nói về Mẹ. Thế nên sung sướng thay những ai còn Mẹ và sống gần gũi
với Mẹ. Nói đến Mẹ là nói đến chữ Hiếu của người con hiếu thảo. Như
người con bị tù oan đã dâng lên Mẹ bát canh hẹ, như Giới Tử Thôi lóc
thịt nuôi Mẹ trong cơn nguy nàn trên rừng sâu. Một niềm hiếu kính hết
lòng phụng dưỡng, vâng lời dạy bảo, làm tròn bổn phận là sự báo ân thiết
thực của người con đối với cha mẹ lúc sinh tiền.
Ngày vui của Bác Đan
Phụng rộn rã những vần thơ họa của các thi sĩ trong và ngoài nước gửi về
chúc tụng. Bài xướng cảm khái do chính Bác Đan Phụng gieo lên nhân ngày
mừng tuổi thọ 81 của chính mình không phải là một bài thơ tự kỷ mà lại
là những vần thơ Đường tuyệt tác chứa đựng tấm lòng thương nhớ quê hương
và tha nhân. Chúng ta hãy lắng hồn để nghe tâm sự của một người Mẹ còn
đang xa quê hương đất tổ:
“Xuân nay mừng ngoại bát tuần rồi,
Nhớ lại hương đời vị ngát môi,
Con cháu thảo hiền vui dạ lão,
Phu quân tao nhã đẹp duyên hài,
Tình nhà nghĩa bạn tâm còn nặng,
Nợ bút niềm quê trí chẳng vơi,
Những ước giòng Thương thêm nước ngọt,
Cho cây Nhân Ái mãi sinh chồi!”
Nhớ lại hương đời vị ngát môi,
Con cháu thảo hiền vui dạ lão,
Phu quân tao nhã đẹp duyên hài,
Tình nhà nghĩa bạn tâm còn nặng,
Nợ bút niềm quê trí chẳng vơi,
Những ước giòng Thương thêm nước ngọt,
Cho cây Nhân Ái mãi sinh chồi!”
Bác Đan Phụng chính là
giòng Thương thêm nước ngọt và một loạt những bài thơ họa chúc mừng gửi
về tới tấp như cây Nhân Ái mãi đâm chồi. Như bài họa “Mừng khánh thọ bát
tuần” của thi sĩ LT Khanh tức nghĩa đệ của bà ở VN; bài họa “Khánh thọ
Bác Đan Phụng” của nhà thơ Nam Man LN Triều (NSW); bài họa của Trường
Xuân Lão PV Tùng (QLD) có tựa đề “Tuổi thọ với Nàng Thơ”; bài “Kính mừng
thọ Bác Đan Phụng” của đồng môn LT Hổ (NSW); bài thơ tự diễn “Mừng tuổi
thọ Bác ĐP” của Nguyên Dự (QLD); bài thơ tự ngâm của Gs ĐH Nga (QLD);
bài họa “Phụng nở mùa Mai” của Sư cô Thích nữ Như Phương (tức thi sĩ Đàm
Liên thuộc chùa Vô Ưu Sài gòn); bài “Chúc Thọ” của Thanh Viêm và Thi
Trâm (ở Canberra); bài họa của Băng Thanh (bạn đồng học); bài “Mừng Thọ”
tặng hiền tỷ Đan Phụng của một thi đệ ở VN; bài họa “Chúc mừng sinh
nhật người thơ ĐP” của Thiên Đức; bài “Mừng Bác Đan Phụng” của nhà văn
kiêm thi sĩ Nguyễn Tư (NSW) và cuối cùng là bài thơ “Trẻ già ai quý hơn
ai?” của Trưởng Tuấn Việt (QLD)

Bàn về những vần thơ
của Bác Đan Phụng, đồng môn LT Hổ (NSW) trong bài viết dành cho Đặc san
Xuân Tây Ninh đồng hương hội có ghi lại như sau: “Những
vần thơ của Bác ĐP mặc dầu diện mạo còn vương vướng thể loại truyền
thống, nhuôm nhuốm chút màu cổ điển, nhưng nó đã được thêu kết bằng
những âm ngữ mướt mịn, tỏa ánh bao sắc hương tình cảm bay cao. Có cái gì
đó thật đoan trang nề nếp mà lại duyên dáng trẻ trung, thiết tha nóng
bỏng mà thủy chung đôn hậu. Đã vượt ra khỏi khung thưa Đường luật những
tứ thơ mênh mang linh động, đã tua tủa những chồi non lộc mới vươn ra
khỏi thân cây cổ thụ già nua: “Đã nói không thương lại vẫn thương, Đời
sao nặng nợ với yêu thương?!. Thương mãi người đi biệt bến Thương”. Được
như vậy là nhờ có một hồn thơ, đúng hơn là một Nàng Thơ sung mãn sức
lực, luôn luôn tươi tắn, dịu hiền ngự trị trong tâm hồn Bác Đan Phụng.
Nàng thơ ấy chính là nàng Tiên huyền diệu đã ít nhiều phò trì cho một
xác thân bậc thượng thọ vẫn bình an khương kiện, ban phước lành cho một
tâm hồn trưởng lão luôn được sáng suốt trẻ trung.”.
Trong các bài thơ của Bác Đan Phụng, bài “Tương tư khúc” có một vị trí thật đặc biệt.
Riêng người viết, nhờ
có duyên với nàng thơ nên Bác Đan Phụng thường viết tặng những bài thơ
mới nhất Bác vừa cảm tác (luôn luôn là bản chép tay, thủ bút của chính
Bác trên các trang giấy học trò). Như bài “Về thăm chốn cũ tưởng niệm cố nhân” và bài “Xuân về lại nhớ tri âm” để tưởng niệm hương linh phu quân Tú Phan nhân dịp Bác về thăm QLD. Ngoài ra còn có các bài thơ “Rừng chiều” họa bài “Đường chiều” của thi sĩ LTKhanh (ở VN), bài “Bát tuần tự sự” viết nhân ngày sinh nhật thứ 80 của Bác tại Sydney.
Trong lá thư năm xưa gửi cho người viết, Bác Đan Phụng có tâm sự như sau: “Bác
xin ghi nhận tình cảm quý hóa của hai cháu đã dành cho Bác. Nhận được
băng cassette thâu cuộc mạn đàm giữa hai bác cháu hôm ấy và hai tấm ảnh
kỷ niệm ngày bác về thăm QLD, bác vui lắm! Đời bác luôn luôn trân trọng
kỷ niệm của cuộc đời mình. Bác chép hai bài thơ mới làm để tặng hai cháu
đọc, gọi là để đáp lại tình tri ngộ, mong hai cháu được một vài phút
vui trong lúc thanh nhàn, bởi người đời có câu “Gươm vàng để tặng Tráng
sĩ, Son phấn để tặng Giai nhân” – thì Bác muốn tặng thơ mình cho khách yêu thơ các cháu ạ!” Thật là cảm kích!
Đêm ấy, sau phần giới
thiệu thơ của các bạn bè, thi hữu, bằng hữu muôn phương là đến phần cắt
bánh và chúc rượu. Cả gia đình 6 người gồm anh chị Phạm Cao Tùng cùng
các cháu và người Mẹ yêu bước lên sân khấu đã ngõ lời cám ơn quý quan
khách và bạn hữu đến chung vui và anh Cao Tùng cho biết đây là cả gia
tài duy nhất của anh tại Úc. Bác Đan Phụng vẫn còn khỏe khoắn, vui vẻ
trong chiếc áo dài nhung màu mực tím, cắt chiếc bánh khánh thọ ngọt
ngào.
Cuối cùng bài thơ “Tương Tư Khúc”
của Bác Đan Phụng sáng tác tại Sydney vào mùa Thu năm 2002 với những
lời thơ tha thiết đã được trưởng nam Cao Tùng phổ nhạc. Nét nhạc tuyệt
vời với cung La thứ đã quyện vào hồn thơ như món quà tinh thần cao quý
của người con trai yêu dấu kính dâng lên Mẹ những vần điệu lung linh, kỳ
diệu và qua tiếng hát say đắm rất Bắc, rất ít nghe của chị Hải Phong
như tiếng hót của loài chim quý qua sự hòa âm của ban nhạc gia đình
Mimosa, quý khách đã cảm nhận được trọn vẹn hương vị ngọt ngào của một
đêm vui mừng khánh thọ chan chứa tình người.
Trên đường về trong đêm mưa, người viết như lịm hồn vào bản Tương Tư Khúc:
“Nhớ sông núi bạc mái đầu,
Nhờ mây cậy gió chở sầu tương tư.
Từng giọt nhớ mưa thu gieo rắc,
Ngoài hiên thu gió hắt hiu buông,
Trông về cố quận thê lương,
Nhớ người đi biệt ngàn phương mịt mù
Tiếng quốc gọi ai hoài tình nước,
Khúc tiêu sầu não nuột hồn thơ,
Trời thu bàng bạc sương mờ,
Sầu dâng man mác bên bờ Sông Thương
Dòng thu cảm mang mang vô tận,
Khúc tương tư mãi tặng cố nhân,
Niềm riêng gửi áng mây Tần,
Xin vì ta chở mấy vần nhớ thương!”
Nhờ mây cậy gió chở sầu tương tư.
Từng giọt nhớ mưa thu gieo rắc,
Ngoài hiên thu gió hắt hiu buông,
Trông về cố quận thê lương,
Nhớ người đi biệt ngàn phương mịt mù
Tiếng quốc gọi ai hoài tình nước,
Khúc tiêu sầu não nuột hồn thơ,
Trời thu bàng bạc sương mờ,
Sầu dâng man mác bên bờ Sông Thương
Dòng thu cảm mang mang vô tận,
Khúc tương tư mãi tặng cố nhân,
Niềm riêng gửi áng mây Tần,
Xin vì ta chở mấy vần nhớ thương!”
• Nhạc phẩm
Tương Tư Khúc do anh Cao Tùng phổ nhạc và đã cất lên tiếng hát của anh
với lòng kính Mẹ qua link YouTube sau đây. Mời quý Văn Thi Hữu mở ra
nghe. Đây là bản nhạc quá ư là tuyệt vời!
Và sau đây là hai bài thơ chúc mừng ngày Đại thượng thọ 90 của Cụ Bà:
BÀI THƠ CHÚC MỪNG NGÀY ĐẠI THỌ 90
CỦA BÁC NỮ THI SĨ ĐAN PHỤNG/QLD
(Quý tặng Thân mẫu Đồng môn Phạm Cao Tùng)
CỦA BÁC NỮ THI SĨ ĐAN PHỤNG/QLD
(Quý tặng Thân mẫu Đồng môn Phạm Cao Tùng)
Họp mặt Tình thơ vẫn thiết tha
Chín mươi Đại Thọ thắm duyên Bà
Bốn đời Nội chắt xinh như ngọc
Ba cặp Mẹ con đẹp tựa ngà
Cháu thảo vầy duyên bừng ý sống
Con hiền trọn hiếu rộn lời ca
Nhâm Thìn yến tiệc tràn ân phước
Chúc Đại gia đình ngát kiệu hoa.-
Chín mươi Đại Thọ thắm duyên Bà
Bốn đời Nội chắt xinh như ngọc
Ba cặp Mẹ con đẹp tựa ngà
Cháu thảo vầy duyên bừng ý sống
Con hiền trọn hiếu rộn lời ca
Nhâm Thìn yến tiệc tràn ân phước
Chúc Đại gia đình ngát kiệu hoa.-
• NVSanh (Đại diện Gia đình QGHC/QLD)
BÀI 2: ĐẠI THỌ 90 TƯỞNG VỀ CỐ QUỐC!
(Họa bài Mừng Tuổi Thọ 89)
(Họa bài Mừng Tuổi Thọ 89)
Xuân về tô thắm một Đài hoa
Đan Phụng nhà thơ óng ngọc ngà
Tuổi hạc thiên duyên không sánh kịp
Thi đàn văn bút khó mà qua
Yêu non nhớ nước càng xuân sắc
Mến cháu thương con mãi hiệp hòa
Trãi Chín Mươi Niên tròn Đại Thọ
Hướng lòng cố quốc dẫu còn xa.
Đan Phụng nhà thơ óng ngọc ngà
Tuổi hạc thiên duyên không sánh kịp
Thi đàn văn bút khó mà qua
Yêu non nhớ nước càng xuân sắc
Mến cháu thương con mãi hiệp hòa
Trãi Chín Mươi Niên tròn Đại Thọ
Hướng lòng cố quốc dẫu còn xa.
• NVSanh (Đại diện Gia đình QGHC/QLD)
Cuối cùng, xin mượn hai giòng thơ cuối của ông bạn già thi sĩ LN Triều ở NSW để kính chúc Bác “Con có dăm vần xin chúc Bác, Ngày Trời tháng Phật gió mưa xuân“ và ông bạn già PV Tùng ở QLD đã reo lên niềm vui “Cơn mưa tình cảm tuôn vào đất, Cây quý vườn thơ đã mọc chồi“ .
Thấy như Trời Phật luôn
độ trì đời sống Bác và những cơn mưa đầu Xuân đã làm đâm chồi nẩy lộc
thêm những cành non tươi tắn trong vườn thơ vốn đã rực rỡ của Bác Đan
Phụng./-
* NSNam
No comments:
Post a Comment